LS Lê T.C.Nhân Phát Biểu Truớc Khi Bị Bỏ Tù
3/2007
Tổ chức Nhân Quyền Human Right Watch có nhận xét những vụ bắt bớ những nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền như Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Luật sư Nguyễn Văn Đài, Luật sư Lê thị công Nhân… gần đây là tình trạng nhân quyền tồi tệ nhất của CSVN trong hai mươi năm qua.
Sau khi được vào WTO, được hưởng quy chế PNTR và được bỏ ra khỏi danh sách CPC, CSVN đã cho thế giới thấy bộ mặt thật, cai trị nhân dân VN bằng bạo lực. CS đã thành công trong việc dùng tù đày để đe dọa sự nổi dậy dành quyền sống của nhân dân Việt Nam. Luật sư Lê Thị Công, 28 tuổi, phát ngôn nhân của Đảng Thăng Tiến, thành viên Khối 8406, đang bị tù đày, bà đã gởi ra ngoại quốc lời kêu gọi, ước mong báo giới quốc tế cũng như đồng bào ở hải ngoại trên toàn thế giới hãy nói lên tiếng nói nhân quyền một cách mạnh mẽ, để giúp đỡ cho ngưòi dân đang sống trong một đất nước bé nhỏ, nghèo khó, lạc hậu như VN.
Đang sống trong chế độ không luật pháp như CSVN mà Luật Sư Lê Thị Công Nhân đã can đảm, can trường đấu tranh, nói lên tiếng nói cho 80 triệu đồng bào VN. Với tinh thần bất khuất này bà quả là một anh thư của thời đại, xứng đáng là con cháu của Hai Bà Trưng, Bà Triệu.
Trong lúc Bà đang bị giam cầm trong lao tù, chúng ta ở ngoài có bổn phận phải tranh đấu cho họ, cho đồng bào VN. Chúng ta nên lên Quốc Hội HK, đi vào Bộ Ngoại Giao HK, viết cho Toà Bạch Ốc, viết lên mặt báo, vận động với những nhà ngoại giao ở hải ngoại, cho thế giới biết tình trạng nhân quyền tồi tệ hiện nay ở VN để làm áp lực tối đa trả tự do tức khắc cho những nhà đấu tranh này…
Kính mời đồng bào đọc lời phát biểu của Luật sư Lê Thị Công Nhân từ Hà Nội trước khi Bà bị CS bắt bỏ tù:
“Thực sự tôi không thể đoán đuợc việc gì có thể xảy ra đối với tôi. Nhưng tôi khẳng định với tất cả lương tâm, trách nhiệm của mình đối với đất nước Việt Nam và dân tộc VN, tôi sẽ chiến đấu tới cùng cho dù chỉ còn có một mình tôi đấu tranh. Trước hết là để giành lấy nhân quyền cho chính mình và giành lấy quyền tự do cho người VN. Và CSVN đừng có mong chờ bất kỳ một điều gì là thỏa hiệp chứ đừng nói là đầu hàng từ phía tôi. Tôi không thách thức, nhưng nếu CSVN đã quyết tâm thực hiện những hành vi tội ác bằng cách chà đạp lên nhân quyền của người dân Việt Nam và muốn dìm đất nứơc VN trong tăm tối về mặt chính trị, nghèo nàn về mặt kinh tế, lạc hậu về mặt văn hóa, kéo dài cho tới trọn đời con cháu của chúng ta cũng như của chính những người CS thì họ cứ việc hành xử với những gì mà họ có.
Gia đình tôi đã chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất, đó là tôi sẽ bị khởi tố và có thể bi đi tù. Tôi xin khẳng định một lần nữa, đó chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra …
Tôi đã được sinh ra là một con người thì tôi có đầy đủ nhân quyền cơ bản mà đấng tạo hóa đã ban ra cho tôi và tôi đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cho VN hoàn toàn xuất phát từ niềm tin, từ lương tâm và trách nhiệm của tôi đối với chính tôi, với dân tộc VN và đối với đấng tạo hóa đã sinh ra tôi.
Những gì tôi đã làm được tuy hết sức là nhỏ bé, nhưng nếu như mỗi cá nhân chúng ta đừng thờ ơ, nghĩa là chưa ủng hộ hay ủng hộ rồi mà chưa tham gia hay tham gia rồi mà chưa tích cực, xin hãy mạnh dạng nói lên tiếng nói của mình.
CS đã hết sức thành công trong việc làm cho dân tộc VN sống chìm trong nỗi sợ hãi hàng chục năm trời. Nếu chúng ta đều sợ hãi như vậy thì tôi e rằng chúng ta đã sợ hãi quá mức cần thiết, tù tội cũng chưa phải là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Tôi không muốn nói mình là một tấm gương, nhưng nếu như tôi có bị tạm thời nhận một nhiệm sở mới hết sức là bất đắc dĩ, đó là nhà tù thì tôi mong rằng các nhiệm sở ở bên ngoài tức là xã hội sẽ có nhiều những người con VN tiếp tục những công việc mà tôi đang làm. Cố nhiên trong nhiệm sở bất đắc dĩ đó tôi sẽ cố gắng hết sức để vẫn tiếp tục công việc truyền bá dân chủ, dân quyền và đấu tranh cho nền dân chủ nhân quyền và tự do cho người dân VN.
Kính thưa các vị khách quốc tế, những gì mà quý vị đã ủng hộ, đã lên tiếng đã thể hiện sự quan tâm và ủng hộ của quý vị cho công cuộc đấu tranh của chúng tôi, thật sự là vô cùng quý báu và xuất phát từ lương tri của quý vị. Tôi có thể nói một cách ngắn gọn là - tôi tri ân quý vị.
Nhà cầm quyền Việt Nam, tôi xin khẳng định với tư cách là một người dân VN bình thường và tôi mong quý vị hiểu được điều đó là CS VN xuất phát từ một nền văn hóa thấp kém, một phương pháp đấu tranh hoàn toàn phi nhân đạo, phân nhân bản và bạo lực để đàn áp, để trấn áp với một mục tiêu hoàn toàn phi đạo lý,vô chính trị và có thể nói là phi pháp. Đó là tịch thu tất cả quyền lãnh đạo đất nước và xã hội vào một nhóm ngưòi nhỏ bé và trường kỳ thực hiện thi hành chế độ độc tài.
Tất cả những điều đó đã tạo nên một tâm lý chủ nhân và họ rất sợ trước những áp lực quốc tế, trước tiếng nói của đất nước văn minh, những tổ chức nhân quyền trên thế giới.
Tại sao họ sợ, họ sợ là vì nơi đó có một sức mạnh rất là lớn trên trường quốc tế mà bản thân của những người Việt nam của chúng tôi ở quốc nội thì không nói được, nhưng ở những nước văn minh và phát triển …tôi rất mong muốn không chỉ trong trường hợp khẩn nguy như hiện nay mà báo giới quốc tế, cũng như những người có đời sống tâm linh trên tòan thế giới hãy nói lên tiếng nói của mình một cách mạnh mẽ, một cách kịp thời để sau này không có những giây phút hối hận rằng chúng ta đã không làm hết sức mình, đã không dùng hết sức mình trong khi chúng ta có thể làm được nhiều hơn để giúp đỡ cho người dân đang sống ở một cái đất nước bé nhỏ, nghèo khó và lạc hậu như VN.
Những người dân đó đã can đảm chấp nhận tất cả những hy sinh về vật chất về an ninh cá nhân để nói lên tiếng nói lương tri của mình, chỉ mong lấy lại những nhân quyền cơ bản nhất của một con người, mà những điều đó đã bị chế độ độc tài CSVN không những đã cướp đi mà còn chà đạp và thủ tiêu hằng chục năm đằng đẳng vừa qua và sẽ còn tiếp tục tùy thuộc vào công cuộc đấu tranh của chúng ta mạnh mẽ và hiệu quả.
Một lần nữa tôi xin khẳng định những sự đàn áp này không làm ảnh hưởng tiêu cực được đến phong trào đấu tranh của khối 8406 của Đảng Thăng Tiến VN.
(Sau một thời gian bị gọi lên công an thẩm vấn, khám xét văn phòng tư gia thì vào lúc 10 giờ sáng 6 Tháng Ba, 2007, sáu công an mặc thường phục đã đến nhà nữ Luật Sư Lê thị Công Nhân đọc lệnh bắt giam bốn tháng để điều tra và khởi tố về tội gọi là tuyên truyền chống phá nhà nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa VN. Theo luật của CSVN, thời gian giam giữ này có thể kéo dài tới 16 tháng mà không cần xét xử.)
TUYẾT MAI ghi
- SỰ THẬT VỀ VIỆC BÃI BỎ NGHỊ ĐỊNH 31/CP NGÀY 14.4.1997
- Phát biểu của ls Le thi Công Nhân nhân dịp có cuộc biểu tình ở USA phản đối cs đàn áp Lm Lý (audio)
- bai viet - Phát-biểu của Nguyễn Khác Toàn và LS Lê Thị Công Nhân bis (đầy đủ)
- * Luật lệ cs : vi phạm hiến pháp, công ước quốc tế...
mardi 20 mars 2007
mercredi 14 mars 2007
SỰ THẬT VỀ VIỆC BÃI BỎ NGHỊ ĐỊNH 31/CP NGÀY 14.4.1997
SỰ THẬT VỀ VIỆC BÃI BỎ NGHỊ ĐỊNH 31/CP NGÀY 14.4.1997
Ls Lê Thị Công Nhân – 11-11-2006
Hiện nay, giới làm nghề luật tại Việt Nam, những người quan tâm đến tình hình đấu tranh dân chủ của Việt Nam, và ngay cả một số ít trong những người đang trực tiếp đấu tranh Dân chủ cho Việt Nam hiện thời đang vui mừng trước thông tin về việc nhà cầm quyền cộng sản sắp hủy bỏ Nghị định 31/CP do ông Võ Văn Kiệt ký ngày 14-4-1997.
Nghị định này có tên gọi đầy đủ là Nghị định của Chính phủ số 31/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 ban hành Quy chế quản chế Hành chính, sau đây gọi tắt là NĐ31. Đây là Nghị định được áp dụng đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến an ninh quốc gia được quy định tại Chương I phần các tội phạm của Bộ luật hình sự nhưng “chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự” (điều 2). Đây là một trong những văn bản pháp luật được coi là hữu hiệu nhất để nhà cầm quyền Việt Nam đàn áp phong trào đấu tranh Dân chủ trong Nước kể từ khi nó được ra đời cho đến nay. Vì, NĐ31 này gần như được lập ra chỉ để áp dụng cho một loại đối tượng duy nhất là các nhà đấu tranh dân chủ ôn hòa bất bạo động, dùng tiếng nói lương tâm và hiểu biết của mình để đòi tự do, nhân quyền và một nền chính trị văn minh đa nguyên cho Việt Nam.
Trong quá khứ, cũng như hiện tại, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn luôn chụp cho những người đấu tranh dân chủ cái mũ “xâm phạm an ninh quốc gia” hoặc “liên quan đến an ninh quốc gia” với những “tội danh” như : chống đối chính sách, tuyên truyền phản cách mạng, lợi dụng dân chủ, phá hoại chính sách đoàn kết, gây rối trị an, xúc phạm lãnh tụ, v.v…, để từ đó thực hiện những việc đàn áp, như : bắt bớ, thẩm vấn, ép buộc công ty/tổ chức nơi những người đấu tranh này làm việc đuổi việc họ, kết án là tội phạm hình sự rồi bỏ tù, quản chế họ…v.v…. Và như chúng ta đều biết, biện pháp quản chế là một trong những biện pháp bị lạm dụng nhiều nhất và tùy tiện nhất so với những biện pháp khác để đàn áp những người đấu tranh dân chủ.
Quản chế được nhà cầm quyền Việt Nam quy định là một biện pháp Hành chính mà thôi !?!? Tức là không cần phải khởi tố và xét xử vụ án như là đối với một vụ án chính thức, mà nhà cầm quyền vẫn có thể áp dụng ngay biện pháp “bỏ tù tại gia” từ 6 tháng đến 2 năm (điều 1) đối với cá nhân đã bị chụp mũ là “xâm phạm an ninh quốc gia”. Điều kinh khủng nhất và cũng là tăm tối nhất của NĐ31 chính là nội dung “chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. nhà cầm quyền quy định như vậy, nhưng lại không hề nói rõ như thế nào là “chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Sự thiếu sót này hoàn toàn do cố ý nhằm tạo điều kiện áp dụng trong bất kỳ trường hợp nào với bất kỳ cá nhân nào mà nhà cầm quyền thấy rằng cần phải trừng trị người đó với tội danh có nội dung “xâm phạm đến an ninh quốc gia”, nhưng cố kiếm cũng không ra nổi một bằng chứng buộc tội nào, hoặc cũng có thể do nhà cầm quyền e sợ một thế lực hoặc dư luận nào đó mà không thể đưa người này ra để buộc tội. Vì vậy, quản chế hành chính đã được ưu tiên lựa chọn áp dụng cho những người này, vì nhà cầm quyền CSVN thấy không nên / không thể xét xử đối tượng một cách công khai !!!
Cũng vì quy định mơ hồ như vậy mà đã có rất nhiều những người đấu tranh dân chủ ôn hòa bất bạo động bị áp dụng quyết định quản chế hành chính và bị cưỡng chế phải sống trong cảnh tù đày tại gia trong suốt những năm qua.
Và khi bị quản chế như vậy, nạn nhân sẽ phải sống trong cảnh đi đâu cũng “phải có lý do chính đáng” và phải làm đơn xin phép và phải đợi có được sự chấp thuận của nhà cầm quyền bằng một “giấy phép” (điều 17). Quy định nghe ra có vẻ rất kỹ và chi tiết như vậy, nhưng đó chỉ là quy định cho phía người bị áp dụng quyết định mà thôi. Còn về phía cơ quan công quyền, là phía “có quyền ra quyết định” và “cấp giấy phép” thì tìm mỏi mắt trong NĐ31 cũng không thấy một điều nào nói như thế nào là lý do chính đáng và những trường hợp nào thì được cấp giấy phép và trường hợp nào không.
Quy định chỉ chặt chẽ một chiều cho phía đối tượng bị áp dụng như vậy vì tinh thần làm luật đã được thiết lập trên cơ sở là luật phục vụ cho quyền lợi và sự tùy tiện của nhà cầm quyền chứ không phải cho dân sinh.
Đọc đến đây, quý vị sẽ thắc mắc sao chưa thấy mối liên hệ giữa tiêu đề của bài viết với nội dung của nó, vì ở trên mới chỉ thấy phân tích nội dung cơ bản của NĐ31 mà thôi.
Vấn đề chính là ở chỗ, ngày 5 tháng 9 năm 2006 vừa qua, nhà cầm quyền Việt Nam trong phiên họp thường kỳ tháng 8 năm 2006 đã ra Nghị quyết số 22/NQ-CP gây xôn xao dư luận trong và ngoài Nước, người Việt cũng như người nước ngoài, cũng bởi vì cái khoản 5 của nó, ghi rằng :
“5. Chính phủ đã nghe Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình về việc bãi bỏ biện pháp quản chế hành chính và hủy bỏ Nghị định số 31/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ về quản chế hành chính.
Chính phủ thống nhất, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thực hiện cải cách tư pháp hiện nay thì việc bãi bỏ biện pháp quản chế hành chính và hủy bỏ Nghị định số 31/CP về quản chế hành chính là cần thiết. Để có cơ sở pháp lý cho việc thực hiện, giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc hủy bỏ hoặc đình chỉ áp dụng một số điều, khoản liên quan đến quản chế hành chính của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, trên cơ sở đó huỷ bỏ Nghị định số 31/CP về quản chế hành chính.”
Có lẽ không cần phải nói nhiều rằng nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã có những việc làm tiến bộ nhất định nhằm sửa chữa những sai lầm do chính họ tạo ra trước đây !?!?, như trong khoản 5 nêu trên, là “xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thực hiện cải cách tư pháp thì việc bãi bỏ biện pháp quản chế hành chính và hủy bỏ Nghị định 31/CP về quản chế hành chính là cần thiết.”
Nhưng họ có thật tâm muốn làm như vậy không ?
Xin thưa rằng không, đơn giản là vì, việc sẽ hủy bỏ Nghị định 31/CP thật sự không hề có nhiều ý nghĩa như nhà cầm quyền Việt Nam vẫn đang tuyên truyền để đánh lạc hướng dư luận. Vì, từ rất lâu rồi NĐ31 này không còn được áp dụng nữa, mà chính xác là từ ngày 01 tháng 10 năm 2002 khi Pháp lệnh Xử lý Vi phạm Hành chính 2002 có hiệu lực thi hành.
Như tất cả chúng ta đều biết, Pháp lệnh có hiệu lực rất cao, chỉ sau Hiến pháp và Luật. Còn về nguyên tắc áp dụng, thì nguyên tắc về thời gian là, nếu 2 hoặc nhiều văn bản luật điều chỉnh về cùng một vấn đề thì văn bản nào ra đời sau sẽ có hiệu lực áp dụng. Do đó, Pháp lệnh Xử lý Vi phạm Hành chính vừa là văn bản ở cấp cao hơn vừa ra đời sau so với NĐ31. Vấn đề là toàn bộ quy định về quản chế hành chính của NĐ31/CP đã được đã được đưa vào Pháp lệnh 2002 một cách “êm ái hơn, gọn gàng hơn và sắc bén hơn” mà vẫn bảo toàn đầy đủ tất cả những nội dung đáng lên án của NĐ31/CP. Cụ thể là các điều trong Pháp lệnh bao trùm toàn bộ NĐ31 gồm những điều sau :
- Điều 6, khoản 2 ghi “Đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác là những người được quy định tại các điều 23, 24, 25, 26 và 27 của Pháp lệnh này.”
- Điều 22 quy định các biện pháp xử lý hành chính khác bao gồm : giáo dục tại xã phường, thị trấn ; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh và quản chế hành chính.
- Điều 27 quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đối với người có hành vi vi phạm pháp luật phương hại đến an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Và thời hạn quản chế Hành chính là từ 6 tháng đến 2 năm.
Nội dung về quản chế Hành chính của NĐ31 đã được quy định một cách tinh vi hơn, với giá trị hiệu lực cao hơn khi được đưa vào trong Pháp lệnh. Bên cạnh đó thì các biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục (điều 25) và đưa vào cơ sở chữa bệnh (điều 26) cũng đã được đưa vào trong Pháp lệnh mới này với một phạm vi áp dụng rất rộng. Hai biện pháp này cũng là những hình thức đàn áp được nhà cầm quyền Việt Nam áp dụng khá phổ biến đối với những người đấu tranh dân chủ. Vì cơ sở giáo dục ở đây chính là một trại giam trá hình, mặc dù chúng cũng có tác dụng giáo dục nhất định đối với những kẻ xấu, nhưng trong thực tế bị nhà cầm quyền lạm dụng không ít để đàn áp những người bất đồng chính kiến. Còn đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh quy định trong Pháp lệnh là người nghiện ma túy và bán dâm (khoản 2 điều 26 Pháp lệnh), nhưng trong thực tế nhà cầm quyền Việt Nam vẫn thường dùng thủ đoạn rêu rao một số người bất đồng chính kiến là mắc bệnh tâm thần và cưỡng chế đưa họ vào các bệnh viện tâm thần nhằm mục đích thâm độc là hãm hại những người này làm cho họ không bệnh cũng thành bệnh.
Vì vậy, nếu nhà cầm quyền Việt Nam nói rằng “việc bãi bỏ biện pháp quản chế hành chính và hủy bỏ NĐ 31/CP về quản chế hành chính là cần thiết” thì họ phải thật sự hủy bỏ tất cả các quy định pháp luật liên quan đến quản chế hành chính, chứ không thể nào lại chỉ là bãi bỏ một nghị định mà cái nghị định đó đã “chết” từ lâu rồi !!!
Sự thật thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam chỉ làm một việc đơn giản là cho NĐ 31/CP ngày 14-4-1997 “chết một lần nữa” mà thôi. Còn mục đích thật sự của họ là thế nào thì ai cũng đã rõ. Hiện nay, Pháp lệnh Xử lý Vi phạm Hành chính 2002, Nghị định 38/CP ngày 18 tháng 3 năm 2005 về việc tập hợp đông người và Nghị định 56/CP về văn hóa và thông tin vừa mới ra đời ngày 6 tháng 6 năm 2006, còn tinh vi hơn và đang còn có hiệu lực đầy đủ và ghê gớm trong việc đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ dũng cảm nói lên bất đồng chính kiến của mình và những hiện trạng tiêu cực của xã hội do sự độc tài của Đảng cộng sản gây ra. Và biện pháp quản chế, cái tên gọi mỹ miều của việc bắt bỏ tù tại gia, vẫn hoàn toàn còn đầy đủ hiệu lực của nó trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002.
Hơn nữa, nếu năm 1991, Quốc hội CSVN đã huỷ bỏ “Lệnh tập trung cải tạo” 1 lệnh kéo dài 3 năm (cho đến năm 1991, có những người bị 5 lệnh liên tiếp phải ở tù 15 năm liền) thì với Pháp lệnh năm 2002, nhà cầm quyền CSVN đã tái lập “Lệnh tập trung cải tạo” này qua việc “đưa vào cơ sở giáo dục từ 6 tháng đến 2 năm và có thể gia hạn một cách tuỳ tiện”.
Vì vậy, các nhà đấu tranh Dân chủ và công luận hãy nhận thức thật đầy đủ và chuẩn xác những chiêu đòn của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam.
Hà Nội, 11-11-2006
Luật sư Lê Thị Công Nhân
-----
nguon
- Phát biểu của ls Le thi Công Nhân nhân dịp có cuộc biểu tình ở USA phản đối cs đàn áp Lm Lý (audio)
- Vết nhơ của giới trí thức VN : Luật sư đoàn Hà Nội
- gs NCKet_Hoi thao va tuong trinh ve Nhan quyen o VN truoc to chuc quoc te tai Oslo Nauy
-----
Phải hủy bỏ điều 88 Bộ Luật Hình Sự !
Nghị Ðịnh 31
PHÁP LỆNH XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH 2002
Ls Lê Thị Công Nhân – 11-11-2006
Hiện nay, giới làm nghề luật tại Việt Nam, những người quan tâm đến tình hình đấu tranh dân chủ của Việt Nam, và ngay cả một số ít trong những người đang trực tiếp đấu tranh Dân chủ cho Việt Nam hiện thời đang vui mừng trước thông tin về việc nhà cầm quyền cộng sản sắp hủy bỏ Nghị định 31/CP do ông Võ Văn Kiệt ký ngày 14-4-1997.
Nghị định này có tên gọi đầy đủ là Nghị định của Chính phủ số 31/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 ban hành Quy chế quản chế Hành chính, sau đây gọi tắt là NĐ31. Đây là Nghị định được áp dụng đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm đến an ninh quốc gia được quy định tại Chương I phần các tội phạm của Bộ luật hình sự nhưng “chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự” (điều 2). Đây là một trong những văn bản pháp luật được coi là hữu hiệu nhất để nhà cầm quyền Việt Nam đàn áp phong trào đấu tranh Dân chủ trong Nước kể từ khi nó được ra đời cho đến nay. Vì, NĐ31 này gần như được lập ra chỉ để áp dụng cho một loại đối tượng duy nhất là các nhà đấu tranh dân chủ ôn hòa bất bạo động, dùng tiếng nói lương tâm và hiểu biết của mình để đòi tự do, nhân quyền và một nền chính trị văn minh đa nguyên cho Việt Nam.
Trong quá khứ, cũng như hiện tại, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn luôn chụp cho những người đấu tranh dân chủ cái mũ “xâm phạm an ninh quốc gia” hoặc “liên quan đến an ninh quốc gia” với những “tội danh” như : chống đối chính sách, tuyên truyền phản cách mạng, lợi dụng dân chủ, phá hoại chính sách đoàn kết, gây rối trị an, xúc phạm lãnh tụ, v.v…, để từ đó thực hiện những việc đàn áp, như : bắt bớ, thẩm vấn, ép buộc công ty/tổ chức nơi những người đấu tranh này làm việc đuổi việc họ, kết án là tội phạm hình sự rồi bỏ tù, quản chế họ…v.v…. Và như chúng ta đều biết, biện pháp quản chế là một trong những biện pháp bị lạm dụng nhiều nhất và tùy tiện nhất so với những biện pháp khác để đàn áp những người đấu tranh dân chủ.
Quản chế được nhà cầm quyền Việt Nam quy định là một biện pháp Hành chính mà thôi !?!? Tức là không cần phải khởi tố và xét xử vụ án như là đối với một vụ án chính thức, mà nhà cầm quyền vẫn có thể áp dụng ngay biện pháp “bỏ tù tại gia” từ 6 tháng đến 2 năm (điều 1) đối với cá nhân đã bị chụp mũ là “xâm phạm an ninh quốc gia”. Điều kinh khủng nhất và cũng là tăm tối nhất của NĐ31 chính là nội dung “chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. nhà cầm quyền quy định như vậy, nhưng lại không hề nói rõ như thế nào là “chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Sự thiếu sót này hoàn toàn do cố ý nhằm tạo điều kiện áp dụng trong bất kỳ trường hợp nào với bất kỳ cá nhân nào mà nhà cầm quyền thấy rằng cần phải trừng trị người đó với tội danh có nội dung “xâm phạm đến an ninh quốc gia”, nhưng cố kiếm cũng không ra nổi một bằng chứng buộc tội nào, hoặc cũng có thể do nhà cầm quyền e sợ một thế lực hoặc dư luận nào đó mà không thể đưa người này ra để buộc tội. Vì vậy, quản chế hành chính đã được ưu tiên lựa chọn áp dụng cho những người này, vì nhà cầm quyền CSVN thấy không nên / không thể xét xử đối tượng một cách công khai !!!
Cũng vì quy định mơ hồ như vậy mà đã có rất nhiều những người đấu tranh dân chủ ôn hòa bất bạo động bị áp dụng quyết định quản chế hành chính và bị cưỡng chế phải sống trong cảnh tù đày tại gia trong suốt những năm qua.
Và khi bị quản chế như vậy, nạn nhân sẽ phải sống trong cảnh đi đâu cũng “phải có lý do chính đáng” và phải làm đơn xin phép và phải đợi có được sự chấp thuận của nhà cầm quyền bằng một “giấy phép” (điều 17). Quy định nghe ra có vẻ rất kỹ và chi tiết như vậy, nhưng đó chỉ là quy định cho phía người bị áp dụng quyết định mà thôi. Còn về phía cơ quan công quyền, là phía “có quyền ra quyết định” và “cấp giấy phép” thì tìm mỏi mắt trong NĐ31 cũng không thấy một điều nào nói như thế nào là lý do chính đáng và những trường hợp nào thì được cấp giấy phép và trường hợp nào không.
Quy định chỉ chặt chẽ một chiều cho phía đối tượng bị áp dụng như vậy vì tinh thần làm luật đã được thiết lập trên cơ sở là luật phục vụ cho quyền lợi và sự tùy tiện của nhà cầm quyền chứ không phải cho dân sinh.
Đọc đến đây, quý vị sẽ thắc mắc sao chưa thấy mối liên hệ giữa tiêu đề của bài viết với nội dung của nó, vì ở trên mới chỉ thấy phân tích nội dung cơ bản của NĐ31 mà thôi.
Vấn đề chính là ở chỗ, ngày 5 tháng 9 năm 2006 vừa qua, nhà cầm quyền Việt Nam trong phiên họp thường kỳ tháng 8 năm 2006 đã ra Nghị quyết số 22/NQ-CP gây xôn xao dư luận trong và ngoài Nước, người Việt cũng như người nước ngoài, cũng bởi vì cái khoản 5 của nó, ghi rằng :
“5. Chính phủ đã nghe Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình về việc bãi bỏ biện pháp quản chế hành chính và hủy bỏ Nghị định số 31/CP ngày 14 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ về quản chế hành chính.
Chính phủ thống nhất, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thực hiện cải cách tư pháp hiện nay thì việc bãi bỏ biện pháp quản chế hành chính và hủy bỏ Nghị định số 31/CP về quản chế hành chính là cần thiết. Để có cơ sở pháp lý cho việc thực hiện, giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc hủy bỏ hoặc đình chỉ áp dụng một số điều, khoản liên quan đến quản chế hành chính của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, trên cơ sở đó huỷ bỏ Nghị định số 31/CP về quản chế hành chính.”
Có lẽ không cần phải nói nhiều rằng nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã có những việc làm tiến bộ nhất định nhằm sửa chữa những sai lầm do chính họ tạo ra trước đây !?!?, như trong khoản 5 nêu trên, là “xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, thực hiện cải cách tư pháp thì việc bãi bỏ biện pháp quản chế hành chính và hủy bỏ Nghị định 31/CP về quản chế hành chính là cần thiết.”
Nhưng họ có thật tâm muốn làm như vậy không ?
Xin thưa rằng không, đơn giản là vì, việc sẽ hủy bỏ Nghị định 31/CP thật sự không hề có nhiều ý nghĩa như nhà cầm quyền Việt Nam vẫn đang tuyên truyền để đánh lạc hướng dư luận. Vì, từ rất lâu rồi NĐ31 này không còn được áp dụng nữa, mà chính xác là từ ngày 01 tháng 10 năm 2002 khi Pháp lệnh Xử lý Vi phạm Hành chính 2002 có hiệu lực thi hành.
Như tất cả chúng ta đều biết, Pháp lệnh có hiệu lực rất cao, chỉ sau Hiến pháp và Luật. Còn về nguyên tắc áp dụng, thì nguyên tắc về thời gian là, nếu 2 hoặc nhiều văn bản luật điều chỉnh về cùng một vấn đề thì văn bản nào ra đời sau sẽ có hiệu lực áp dụng. Do đó, Pháp lệnh Xử lý Vi phạm Hành chính vừa là văn bản ở cấp cao hơn vừa ra đời sau so với NĐ31. Vấn đề là toàn bộ quy định về quản chế hành chính của NĐ31/CP đã được đã được đưa vào Pháp lệnh 2002 một cách “êm ái hơn, gọn gàng hơn và sắc bén hơn” mà vẫn bảo toàn đầy đủ tất cả những nội dung đáng lên án của NĐ31/CP. Cụ thể là các điều trong Pháp lệnh bao trùm toàn bộ NĐ31 gồm những điều sau :
- Điều 6, khoản 2 ghi “Đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác là những người được quy định tại các điều 23, 24, 25, 26 và 27 của Pháp lệnh này.”
- Điều 22 quy định các biện pháp xử lý hành chính khác bao gồm : giáo dục tại xã phường, thị trấn ; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh và quản chế hành chính.
- Điều 27 quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đối với người có hành vi vi phạm pháp luật phương hại đến an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Và thời hạn quản chế Hành chính là từ 6 tháng đến 2 năm.
Nội dung về quản chế Hành chính của NĐ31 đã được quy định một cách tinh vi hơn, với giá trị hiệu lực cao hơn khi được đưa vào trong Pháp lệnh. Bên cạnh đó thì các biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục (điều 25) và đưa vào cơ sở chữa bệnh (điều 26) cũng đã được đưa vào trong Pháp lệnh mới này với một phạm vi áp dụng rất rộng. Hai biện pháp này cũng là những hình thức đàn áp được nhà cầm quyền Việt Nam áp dụng khá phổ biến đối với những người đấu tranh dân chủ. Vì cơ sở giáo dục ở đây chính là một trại giam trá hình, mặc dù chúng cũng có tác dụng giáo dục nhất định đối với những kẻ xấu, nhưng trong thực tế bị nhà cầm quyền lạm dụng không ít để đàn áp những người bất đồng chính kiến. Còn đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh quy định trong Pháp lệnh là người nghiện ma túy và bán dâm (khoản 2 điều 26 Pháp lệnh), nhưng trong thực tế nhà cầm quyền Việt Nam vẫn thường dùng thủ đoạn rêu rao một số người bất đồng chính kiến là mắc bệnh tâm thần và cưỡng chế đưa họ vào các bệnh viện tâm thần nhằm mục đích thâm độc là hãm hại những người này làm cho họ không bệnh cũng thành bệnh.
Vì vậy, nếu nhà cầm quyền Việt Nam nói rằng “việc bãi bỏ biện pháp quản chế hành chính và hủy bỏ NĐ 31/CP về quản chế hành chính là cần thiết” thì họ phải thật sự hủy bỏ tất cả các quy định pháp luật liên quan đến quản chế hành chính, chứ không thể nào lại chỉ là bãi bỏ một nghị định mà cái nghị định đó đã “chết” từ lâu rồi !!!
Sự thật thì nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam chỉ làm một việc đơn giản là cho NĐ 31/CP ngày 14-4-1997 “chết một lần nữa” mà thôi. Còn mục đích thật sự của họ là thế nào thì ai cũng đã rõ. Hiện nay, Pháp lệnh Xử lý Vi phạm Hành chính 2002, Nghị định 38/CP ngày 18 tháng 3 năm 2005 về việc tập hợp đông người và Nghị định 56/CP về văn hóa và thông tin vừa mới ra đời ngày 6 tháng 6 năm 2006, còn tinh vi hơn và đang còn có hiệu lực đầy đủ và ghê gớm trong việc đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ dũng cảm nói lên bất đồng chính kiến của mình và những hiện trạng tiêu cực của xã hội do sự độc tài của Đảng cộng sản gây ra. Và biện pháp quản chế, cái tên gọi mỹ miều của việc bắt bỏ tù tại gia, vẫn hoàn toàn còn đầy đủ hiệu lực của nó trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002.
Hơn nữa, nếu năm 1991, Quốc hội CSVN đã huỷ bỏ “Lệnh tập trung cải tạo” 1 lệnh kéo dài 3 năm (cho đến năm 1991, có những người bị 5 lệnh liên tiếp phải ở tù 15 năm liền) thì với Pháp lệnh năm 2002, nhà cầm quyền CSVN đã tái lập “Lệnh tập trung cải tạo” này qua việc “đưa vào cơ sở giáo dục từ 6 tháng đến 2 năm và có thể gia hạn một cách tuỳ tiện”.
Vì vậy, các nhà đấu tranh Dân chủ và công luận hãy nhận thức thật đầy đủ và chuẩn xác những chiêu đòn của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam.
Hà Nội, 11-11-2006
Luật sư Lê Thị Công Nhân
-----
nguon
- Phát biểu của ls Le thi Công Nhân nhân dịp có cuộc biểu tình ở USA phản đối cs đàn áp Lm Lý (audio)
- Vết nhơ của giới trí thức VN : Luật sư đoàn Hà Nội
- gs NCKet_Hoi thao va tuong trinh ve Nhan quyen o VN truoc to chuc quoc te tai Oslo Nauy
-----
Phải hủy bỏ điều 88 Bộ Luật Hình Sự !
Nghị Ðịnh 31
PHÁP LỆNH XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH 2002
Thư gởi chị Lê thị Công Nhân
Thư gởi chị Lê thị Công Nhân
Caubay
Lời thưa:
Gần đây khi đọc tin về sự gia tăng đàn áp các người yêu tự do dân chủ của nhà cầm quyền CSVN, đặc biệt về việc bỏ tù chị Lê thị Công Nhân, một người phụ nữ nhỏ bé, tôi đã nhiều lần định viết ý kiến trên các mạng internet để ủng hộ chị. Tuy vậy tôi viết rồi lại xoá vì thấy ý kiến ngắn ngủi không nói hết lòng kính trọng, thuơng yêu, ngưỡng mộ của tôi đối với chị. Tôi mạo muội viết thư này gởi đến chị thông qua các diễn đàn. Dù biết chị đang ở trong tù nhưng tôi hy vọng chị sẽ đọc được. Lá thư này tôi cũng mong được gởi đến các bạn trẻ, đặc biệt ở trong nước như một lời tâm sự.
Tôi cũng ghi nhận việc làm, nếu không nói là cám ơn, báo Công An TP HCM đã đăng tin về việc bỏ tù anh Nguyễn văn Đài và chị Lê thị Công Nhân mới đây. Sỡ dĩ nói là “cám ơn” vì qua nội dung bài báo này, độc giả không tìm thấy lý lẽ sự sai quấy của ai ngoài nhà cầm quyền và đáng nói hơn hết, đã giúp dân chúng trong nước biết về anh Nguyễn văn Đài, chị Lê thị Công Nhân, linh mục Nguyễn văn Lý là ai, họ đã và đang làm gì.
Thư kính gởi chị Lê thị Công Nhân.
Chị Công Nhân yêu quý,
Lê Thị Công Nhân
Nguồn: DCVOnline
--------------------------------------------------------------------------------
Xin cho phép tôi được gọi chị như thế vì đó cũng như những gì tôi viết trong thư này đều xuất phát tự đáy lòng của tôi, một người lớn hơn chị một thế hệ và ớ cách chị nửa vòng trái đất. Trên đời này có lẽ chị là người phụ nữ, ngoài mẹ, vợ, chị em và con gái của tôi, đã đem lại trong tôi lòng kính phục, yêu mến nhất, dù tôi chưa hề gặp.
Từ lâu đã có nhiều tác giả viết thư cho các người có quyền hành, có trách nhiệm trực tiếp với tình trạng hiện tại của đất nước như thư gới các ông Nông đức Mạnh, Võ văn Kiệt, Nguyễn tấn Dũng, ... thậm chí có thư cho ông Hồ chí Minh; nhưng hình như tất cả các thư đó đều không được đọc, hoặc giả có được đọc thì cũng không tác động gì tới não bộ của những người này. Có lẽ họ đã viết thư cho những người có lỗ tai trâu, hay ngược lại, cho những con trâu có lỗ tai người. Tôi đang viết cho chị với niềm hãnh diện, tin tưởng rằng những dòng tôi viết sẽ được người nhận chia sẻ, thông cảm và qua đó hy vọng góp một ngọn lửa nhỏ nhoi để sưởi ấm tinh thần và thể xác của chị. Tôi viết thế vì chị đang ở trong nhà tù của một chế độ có bề dày kinh nghiệm trấn áp tinh vi và dã man nhất trong lịch sử loài người.
Tôi được biết chị qua phong trào đấu tranh cho dân chủ cho nước nhà. Những gì chị làm, những gì chị viết đã nói lên tấm lòng yêu chuộng tự do và công lý rất thiết tha. Tôi tin rằng sự can đảm của chị và tấm lòng hy sinh cho dân tộc đã tác động đến cho rất nhiều người, nhất là các bạn trẻ. Nó đã khơi dậy trong lòng tôi niềm tin rất mãnh liệt. Vì sao tôi mạnh dạn nói như thế? Vì chị với vóc dáng yếu đuối, mảnh mai của người phụ nữ, chị lại lớn lên hoàn toàn trong cái chế độ Cộng sản, nhận sự giáo dục, thật ra là nhồi sọ từ tấm bé do một hệ thống tuyên truyền rất tinh vi, đồ sộ, mà đã nhận ra và can đảm nói lên tiếng nói của lương tâm bất chấp mọi sự đe doạ, khủng bố. So sánh với những người tranh đấu cho dân chủ lớn lên từ miền Nam tự do, hay được đi ra khắp thế giới có cơ hội hấp thụ tư tưởng văn minh của nhân loại, sự nhận thức của chị trong một môi trường như thế đã nhân sự kính phục, trân trọng, tin tưởng, vui mừng, phấn khởi trong lòng tôi gấp bội. Tôi thường có cảm xúc như thế khi biết được những người, nhất là các bạn trẻ lớn lên trong chế độ cộng sản, đặc biệt là các bạn từ miền Bắc, đứng lên tranh đấu cho dân chủ. Một ví dụ rất cụ thể là khi biết về một nhóm các bạn trẻ ra đi từ miền Bắc bên Ba Lan, thành lập báo Đàn chim Việt để gióng lên tiếng nói dân chủ; tôi đã rất đổi vui mừng và có viết ý kiến đại khái “...lịch sử đất nươc ta khi gặp cơn nguy biến thường xuất hiện những người con đáng yêu như thế”. Đối với các bạn ở báo Đàn chim Việt hay bất cứ tổ chức đấu tranh ở hải ngoại nào khác (*), việc làm của họ, tuy đáng trân trọng, vẫn cần nhiều thời gian thử thách. Riêng với chị, với tôi, ý nghĩa nhóm từ “người con đáng yêu của dân tộc” thật không còn gì chính xác hơn.
Tôi đã nghe, đọc, xúc động và mong cám ơn chị về các phát biểu sau:
“...Một lần nữa tôi xin khẳng định tôi không bao giờ đầu hàng, không bao giờ thỏa hiệp với CSVN cho dù điều tồi tệ nhất có thể xảy đến. Đối với tôi, đi tù chưa phải là điều tồi tệ nhất...”
“...Sống thế nào thì sống, vẫn phải giữ lòng tự trọng và lương tâm của mình... Mà chỉ có lương tâm và lòng tự trọng của tôi nói với tôi rằng không bao giờ đầu hàng”.
Kính thưa chị,
Khi viết những dòng bên trên, tôi đã tự hỏi mình là có quá vội vã, có quá ca tụng chị hay không? Và đặc biệt khi viết như thế, tôi hàm ý rằng chị đã đi vào lịch sử như Bà Trưng, Bà Triệu, Cô Giang, Cô Bắc, tôi có đặt trên vai chị một gánh nặng, một trách nhiệm tâm lý hay không? Tôi tin rằng không vì tôi thấy rằng cho đến phút này chị hoàn toàn xứng đáng như thế, và rõ ràng chị đã xung phong nhận trên vai mình gánh nặng của tổ quốc. Xin chị hãy thanh thản đi con đường mình đã chọn, toàn dân chắc chắn sẽ ủng hộ chị. Mai sau dầu có thế nào, những gì chị ĐÃ cống hiến đã để lại trong lòng tôi sự an tâm khi viết những dòng trên. Một người con gái nhỏ nhắn, không quyền phép, không một tắc sắt trong tay, lại đang sống giữa bạo quyền mà dám hành động thẳng thằn, quang minh chính đại như thế! Những con dân Việt trong và ngoài nước, những bạn trẻ sẽ hướng về chị như một tấm gương, và hơn thế, như một lời tự vấn.
Đồng thời tôi cũng hy vọng rằng những ai biết “yêu nhất, quý nhất là sự trung thực và cũng ghét nhất, giận nhất là sự giả dối” hãy nghiền ngẫm câu này của chị: “...Sống thế nào thì sống, vẫn phải giữ lòng tự trọng và lương tâm của mình...” Rồi ra họ cũng có gia đình, con cái, bạn bè và một lúc nào đó họ cũng sẽ nhận ra ánh mắt nghi ngờ, khinh bỉ của chính thân nhân họ. Suy cho cùng cộng sản cũng là những con người phải không chị?
Kính chị Công Nhân,
Giờ này chị đang ở trong nhà tù cộng sản, có lẽ chị đang phải khốn khổ tranh đấu với mọi thủ đoạn rất đê hèn của bọn người tự xưng là văn minh, dân chủ, mạo xưng là đầy tới của nhân dân; tôi xin để lắng lòng mình cầu nguyện cho chị. Chị có tin rằng giữa đêm khuya nơi xứ người xa xôi có người dân Việt đang nhỏ dòng lệ khi nghĩ về chị, khi viết những dòng này cho chị.
Xin nguyện cầu hồn thiêng sông núi, anh linh của các bậc tiền nhân phù hộ cho chị và tất cả những người đang tranh đấu vì tự do dân chủ khác có đủ sức khoẻ, nghị lực và bình an.
Kính thư,
Caubay
San Diego 11 tháng 3 năm 2007
© DCVOnline
--------------------------------------------------------------------------------
Chú thích của DCVOnline (*): Hầu tránh có sự so sánh với “bất cứ tổ chức đấu tranh ở hải ngoại nào” hay được hiểu là “1 tổ chức đấu tranh ở hải ngoại”, chúng tôi xin trích đoạn Mục đích hoạt động của Đàn Chim Việt:
Báo điện tử Đàn Chim Việt Online (danchimviet.com, DCVOnline) thuộc DCV Inc., một tổ chức truyền thông đại chúng — bất vụ lợi, độc lập — cho người Việt toàn cầu, trụ sở đặt tại New Jersey, Hoa Kỳ.
------
- Phát biểu của ls Le thi Công Nhân nhân dịp có cuộc biểu tình ở USA phản đối cs đàn áp Lm Lý (audio) bai viet
- Vết nhơ của giới trí thức VN : Luật sư đoàn Hà Nội
- gs NCKet_Hoi thao va tuong trinh ve Nhan quyen o VN truoc to chuc quoc te tai Oslo Nauy
Caubay
Lời thưa:
Gần đây khi đọc tin về sự gia tăng đàn áp các người yêu tự do dân chủ của nhà cầm quyền CSVN, đặc biệt về việc bỏ tù chị Lê thị Công Nhân, một người phụ nữ nhỏ bé, tôi đã nhiều lần định viết ý kiến trên các mạng internet để ủng hộ chị. Tuy vậy tôi viết rồi lại xoá vì thấy ý kiến ngắn ngủi không nói hết lòng kính trọng, thuơng yêu, ngưỡng mộ của tôi đối với chị. Tôi mạo muội viết thư này gởi đến chị thông qua các diễn đàn. Dù biết chị đang ở trong tù nhưng tôi hy vọng chị sẽ đọc được. Lá thư này tôi cũng mong được gởi đến các bạn trẻ, đặc biệt ở trong nước như một lời tâm sự.
Tôi cũng ghi nhận việc làm, nếu không nói là cám ơn, báo Công An TP HCM đã đăng tin về việc bỏ tù anh Nguyễn văn Đài và chị Lê thị Công Nhân mới đây. Sỡ dĩ nói là “cám ơn” vì qua nội dung bài báo này, độc giả không tìm thấy lý lẽ sự sai quấy của ai ngoài nhà cầm quyền và đáng nói hơn hết, đã giúp dân chúng trong nước biết về anh Nguyễn văn Đài, chị Lê thị Công Nhân, linh mục Nguyễn văn Lý là ai, họ đã và đang làm gì.
Thư kính gởi chị Lê thị Công Nhân.
Chị Công Nhân yêu quý,
Lê Thị Công Nhân
Nguồn: DCVOnline
--------------------------------------------------------------------------------
Xin cho phép tôi được gọi chị như thế vì đó cũng như những gì tôi viết trong thư này đều xuất phát tự đáy lòng của tôi, một người lớn hơn chị một thế hệ và ớ cách chị nửa vòng trái đất. Trên đời này có lẽ chị là người phụ nữ, ngoài mẹ, vợ, chị em và con gái của tôi, đã đem lại trong tôi lòng kính phục, yêu mến nhất, dù tôi chưa hề gặp.
Từ lâu đã có nhiều tác giả viết thư cho các người có quyền hành, có trách nhiệm trực tiếp với tình trạng hiện tại của đất nước như thư gới các ông Nông đức Mạnh, Võ văn Kiệt, Nguyễn tấn Dũng, ... thậm chí có thư cho ông Hồ chí Minh; nhưng hình như tất cả các thư đó đều không được đọc, hoặc giả có được đọc thì cũng không tác động gì tới não bộ của những người này. Có lẽ họ đã viết thư cho những người có lỗ tai trâu, hay ngược lại, cho những con trâu có lỗ tai người. Tôi đang viết cho chị với niềm hãnh diện, tin tưởng rằng những dòng tôi viết sẽ được người nhận chia sẻ, thông cảm và qua đó hy vọng góp một ngọn lửa nhỏ nhoi để sưởi ấm tinh thần và thể xác của chị. Tôi viết thế vì chị đang ở trong nhà tù của một chế độ có bề dày kinh nghiệm trấn áp tinh vi và dã man nhất trong lịch sử loài người.
Tôi được biết chị qua phong trào đấu tranh cho dân chủ cho nước nhà. Những gì chị làm, những gì chị viết đã nói lên tấm lòng yêu chuộng tự do và công lý rất thiết tha. Tôi tin rằng sự can đảm của chị và tấm lòng hy sinh cho dân tộc đã tác động đến cho rất nhiều người, nhất là các bạn trẻ. Nó đã khơi dậy trong lòng tôi niềm tin rất mãnh liệt. Vì sao tôi mạnh dạn nói như thế? Vì chị với vóc dáng yếu đuối, mảnh mai của người phụ nữ, chị lại lớn lên hoàn toàn trong cái chế độ Cộng sản, nhận sự giáo dục, thật ra là nhồi sọ từ tấm bé do một hệ thống tuyên truyền rất tinh vi, đồ sộ, mà đã nhận ra và can đảm nói lên tiếng nói của lương tâm bất chấp mọi sự đe doạ, khủng bố. So sánh với những người tranh đấu cho dân chủ lớn lên từ miền Nam tự do, hay được đi ra khắp thế giới có cơ hội hấp thụ tư tưởng văn minh của nhân loại, sự nhận thức của chị trong một môi trường như thế đã nhân sự kính phục, trân trọng, tin tưởng, vui mừng, phấn khởi trong lòng tôi gấp bội. Tôi thường có cảm xúc như thế khi biết được những người, nhất là các bạn trẻ lớn lên trong chế độ cộng sản, đặc biệt là các bạn từ miền Bắc, đứng lên tranh đấu cho dân chủ. Một ví dụ rất cụ thể là khi biết về một nhóm các bạn trẻ ra đi từ miền Bắc bên Ba Lan, thành lập báo Đàn chim Việt để gióng lên tiếng nói dân chủ; tôi đã rất đổi vui mừng và có viết ý kiến đại khái “...lịch sử đất nươc ta khi gặp cơn nguy biến thường xuất hiện những người con đáng yêu như thế”. Đối với các bạn ở báo Đàn chim Việt hay bất cứ tổ chức đấu tranh ở hải ngoại nào khác (*), việc làm của họ, tuy đáng trân trọng, vẫn cần nhiều thời gian thử thách. Riêng với chị, với tôi, ý nghĩa nhóm từ “người con đáng yêu của dân tộc” thật không còn gì chính xác hơn.
Tôi đã nghe, đọc, xúc động và mong cám ơn chị về các phát biểu sau:
“...Một lần nữa tôi xin khẳng định tôi không bao giờ đầu hàng, không bao giờ thỏa hiệp với CSVN cho dù điều tồi tệ nhất có thể xảy đến. Đối với tôi, đi tù chưa phải là điều tồi tệ nhất...”
“...Sống thế nào thì sống, vẫn phải giữ lòng tự trọng và lương tâm của mình... Mà chỉ có lương tâm và lòng tự trọng của tôi nói với tôi rằng không bao giờ đầu hàng”.
Kính thưa chị,
Khi viết những dòng bên trên, tôi đã tự hỏi mình là có quá vội vã, có quá ca tụng chị hay không? Và đặc biệt khi viết như thế, tôi hàm ý rằng chị đã đi vào lịch sử như Bà Trưng, Bà Triệu, Cô Giang, Cô Bắc, tôi có đặt trên vai chị một gánh nặng, một trách nhiệm tâm lý hay không? Tôi tin rằng không vì tôi thấy rằng cho đến phút này chị hoàn toàn xứng đáng như thế, và rõ ràng chị đã xung phong nhận trên vai mình gánh nặng của tổ quốc. Xin chị hãy thanh thản đi con đường mình đã chọn, toàn dân chắc chắn sẽ ủng hộ chị. Mai sau dầu có thế nào, những gì chị ĐÃ cống hiến đã để lại trong lòng tôi sự an tâm khi viết những dòng trên. Một người con gái nhỏ nhắn, không quyền phép, không một tắc sắt trong tay, lại đang sống giữa bạo quyền mà dám hành động thẳng thằn, quang minh chính đại như thế! Những con dân Việt trong và ngoài nước, những bạn trẻ sẽ hướng về chị như một tấm gương, và hơn thế, như một lời tự vấn.
Đồng thời tôi cũng hy vọng rằng những ai biết “yêu nhất, quý nhất là sự trung thực và cũng ghét nhất, giận nhất là sự giả dối” hãy nghiền ngẫm câu này của chị: “...Sống thế nào thì sống, vẫn phải giữ lòng tự trọng và lương tâm của mình...” Rồi ra họ cũng có gia đình, con cái, bạn bè và một lúc nào đó họ cũng sẽ nhận ra ánh mắt nghi ngờ, khinh bỉ của chính thân nhân họ. Suy cho cùng cộng sản cũng là những con người phải không chị?
Kính chị Công Nhân,
Giờ này chị đang ở trong nhà tù cộng sản, có lẽ chị đang phải khốn khổ tranh đấu với mọi thủ đoạn rất đê hèn của bọn người tự xưng là văn minh, dân chủ, mạo xưng là đầy tới của nhân dân; tôi xin để lắng lòng mình cầu nguyện cho chị. Chị có tin rằng giữa đêm khuya nơi xứ người xa xôi có người dân Việt đang nhỏ dòng lệ khi nghĩ về chị, khi viết những dòng này cho chị.
Xin nguyện cầu hồn thiêng sông núi, anh linh của các bậc tiền nhân phù hộ cho chị và tất cả những người đang tranh đấu vì tự do dân chủ khác có đủ sức khoẻ, nghị lực và bình an.
Kính thư,
Caubay
San Diego 11 tháng 3 năm 2007
© DCVOnline
--------------------------------------------------------------------------------
Chú thích của DCVOnline (*): Hầu tránh có sự so sánh với “bất cứ tổ chức đấu tranh ở hải ngoại nào” hay được hiểu là “1 tổ chức đấu tranh ở hải ngoại”, chúng tôi xin trích đoạn Mục đích hoạt động của Đàn Chim Việt:
Báo điện tử Đàn Chim Việt Online (danchimviet.com, DCVOnline) thuộc DCV Inc., một tổ chức truyền thông đại chúng — bất vụ lợi, độc lập — cho người Việt toàn cầu, trụ sở đặt tại New Jersey, Hoa Kỳ.
------
- Phát biểu của ls Le thi Công Nhân nhân dịp có cuộc biểu tình ở USA phản đối cs đàn áp Lm Lý (audio) bai viet
- Vết nhơ của giới trí thức VN : Luật sư đoàn Hà Nội
- gs NCKet_Hoi thao va tuong trinh ve Nhan quyen o VN truoc to chuc quoc te tai Oslo Nauy
lundi 19 février 2007
Cong ly xhcn: Ls Bui thi Kim Thanh van con bi giam
Mặc dầu đã có nhiều tổ chức quốc tế lên tiếng bênh vực, Luật sư Bùi Thị Kim Thành vẫn còn bị giam giữ
2007.02.18
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Từ hơn 3 tháng nay, nữ luật sư bênh vực dân oan Bùi Kim Thành vẫn bị giam giữ tại khoa pháp y B4, bệnh viện tâm thần Biên Hoà tuy chưa có một án lệnh hay bệnh án cụ thể nào được công bố, mặc dù đã có nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế lên tiếng yêu cầu nhà nước Việt Nam phóng thích bà.
Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
Tải xuống để nghe
Luật sư Bùi Kim Thành. File photo
Bấy lâu nay, ngoại trừ thân nhân, không ai được phép vào thăm viếng hoặc gửi quà cho bà. Hôm chủ nhật vừa qua, một số dân oan từng được luật sư Thành trợ giúp pháp lý đã tìm cách tiếp xúc được với bà, và được biết chính người nhà của bà đã có đơn xin bảo lãnh nhưng bị chính quyền từ chối. Qua câu chuyện với Trà Mi, anh Bình, một dân oan từ miền Tây, thuật lại chi tiết buổi gặp gỡ.
Dân oan từ miền Tây: Chủ nhật trước chúng tôi có vào thăm luật sư Thành, được tiếp xúc trực tiếp với bà khoảng 10 phút.
Trà Mi: Được biết là lâu nay bà con dân oan không được phép tiếp xúc với luật sư Thành, nhưng lần này vì lý do gì mà bà con được gặp trực tiếp luật sư, thưa anh?
Dân oan từ miền Tây: Lần này vì chủ nhật bệnh viện vắng, họ nghỉ việc, chúng tôi lén đến thăm lúc đó chỉ còn duy nhất 1 người trực ở đó nên chúng tôi năn nỉ mãi người này mới động lòng cho gặp 5 phút, nhưng chúng tôi ráng nấn ná nói chuyện được 10 phút, chứ không phải dễ gì gặp được chị Thành.
Trà Mi: Anh thấy tình trạng sức khoẻ của luật sư Thành trong lần gặp gỡ này như thế nào?
Dân oan từ miền Tây: Lúc này có vẻ luật sư cũng tiều tuỵ, không được mạnh khoẻ như trước kia, vì bị chích thuốc nhiều quá, mấy chục mũi thuốc rồi mà các loại thuốc đó gây ảnh hưởng dữ lắm. Thấy chị Thành khờ khạo đi, không còn minh mẫn như lúc trước nữa vì nhiều khi họ cũng cố tình làm vậy để tạo chứng cớ.
Lúc này có vẻ luật sư cũng tiều tuỵ, không được mạnh khoẻ như trước kia, vì bị chích thuốc nhiều quá, mấy chục mũi thuốc rồi mà các loại thuốc đó gây ảnh hưởng dữ lắm. Thấy chị Thành khờ khạo đi, không còn minh mẫn như lúc trước nữa vì nhiều khi họ cũng cố tình làm vậy để tạo chứng cớ.
Dân oan từ miền Tây
Họ đã lỡ đưa vào đây với lý do tâm thần mà dân chúng tôi kiện nhiều quá, quốc tế cũng lên án nhiều thì chắc họ cũng làm sao để chị Thành có dấu hiệu bị tâm thần, nếu sau này đưa ra ánh sáng mà chị Thành không bị bệnh thì họ sẽ lãnh trách nhiệm.
Trà Mi: Luật sư Bùi Kim Thành có cho biết tình trạng của bà hiện nay trong bệnh viện tâm thần Biên Hoà ra sao, được đối đãi và điều trị như thế nào không ạ?
Dân oan từ miền Tây: Luật sư nói là có khi dấu thuốc được thì quăng đi sợ uống nhiều bị ảnh hưởng, có khi có người bắt ép phải uống. Thật ra không hỏi được nhiều vì gặp ngắn ngủi quá. Với lại chúng tôi có hỏi thăm tình hình gia đình luật sư ra sao.
Chị Thành có cho biết chồng chị có làm đơn xin bảo lãnh cho chị về nhưng chính quyền không cho với lý do giữ lại để trị bệnh, nhưng thật ra đây là một hình thức giam lỏng chị ấy mà thôi. Chính luật sư Thành nói với tôi là nếu có được thả về chắc cũng phải đợi ít nhất là sau bầu cử quốc hội vì theo bà, có lẽ họ không thả bà ra là vì sợ bà ra ứng cử gây ảnh hửơng vì mấy năm trước bà có ứng cử nhiều lần rồi nhưng bị ngăn cản.
Trà Mi: Ngoài ra thì luật sư Thành có nhắn gửi gì với bà con dân oan hay không?
Dân oan từ miền Tây: Chị Thành có dặn nhắn với dân oan là bà con hãy tiếp tục cố gắng, vì chị hiện nay vì tình trạng sức khoẻ, sự ảnh hưởng tính mạng và con cái gia đình nên chị xin tạm ngưng không làm luật sư cho dân oan và cho đảng dân chủ nữa. Chị ấy cũng động viên chúng tôi nên cố gắng, dù không có luật sư Thành thì cũng phải vươn lên, đừng khuất phục trước thế lực nào.
Luật sư Thành tâm sự nói rằng trong ấy bây giờ chị cũng chán nản, bực bội quá, như chim bị nhốt trong lồng. Chị cũng nán và buồn lắm nên mới xin nghỉ không làm luật sư cho dân, cho đảng dân chủ nữa để họ thả chị về đoàn tụ với gia đình dịp Tết mà cũng không được. Nhiều nơi đã lên tiếng mà nhà nước này coi như mắt nhắm tai ngơ không ai nghe hết.
Trà Mi: Luật sư Thành có cho biết là trong thời gian bà bị giam từ 3 tháng nay có phái đoàn nước ngoài nào đến thăm và làm việc hay gặp gỡ bà trong bệnh viện Biên Hoà hay không?
Dân oan từ miền Tây: Chưa, bà nói có nghe đồn vậy thôi chứ chưa thấy ai đến hỏi chuyện, tiếp xúc với bà cả.
Trà Mi: Xin cảm ơn anh đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này.
(Xin theo dõi nội dung câu chuyện trong phần âm thanh bên trên)
Theo dòng câu chuyện:
- Lời kể của một nạn nhân từng bị giam giữ tại bệnh viện tâm thần Biên Hòa (phần 2)
- Lời kể của một nạn nhân từng bị giam giữ tại bệnh viện tâm thần Biên Hòa (phần 1)
- Đơn tố cáo của nữ Luật sư Bùi Kim Thành
- Nữ Luật sư Bùi Kim Thành bị đưa vào bệnh viện tâm thần?
Thông tin trên mạng:
- Viet Nam: Fear for safety/torture/ill-treatment/arbitrary detention: Bui Thi Kim Thanh (f)
- Viet Nam: Fear for safety/torture/ill-treatment/arbitrary detention: Bui Thi Kim Thanh (f)
- Lawyer Bui Thi Kim Thanh is being held against her will
- Viet Nam: Human rights defender held against her will
Tiếng Việt
© 2007 Radio Free Asia
Các tin, bài liên quan
Tình trạng nguy cấp về sức khoẻ của nhà báo Nguyễn Vũ Bình
Chủ tịch Sáng hội Rafto trả lời phỏng vấn RFA về chuyện bị cấm vào Việt Nam
Nhiều dấu hiệu "quan ngại" được phát hiện ngay tại tư gia của bác sĩ Phạm Hồng Sơn
Ky sư Bạch Ngọc Dương bị hành hung trên đường phố Hà Nội
Kỷ sư Bạch Ngọc Dương thuật lại chuyện bị công an hành hung
Bà Bùi Thị Kim Ngân: Anh Bình bị kỳ thị và phải còng tay khi đi khám bệnh
Dân oan trông mong vào công lý và quản trị của chính phủ
Luật sư Lê Thị Công Nhân kể lại sự việc bị công an bố ráp, bắt giữ
Phỏng vấn thân mẫu luật sư Lê Thị Công Nhân về việc khám nhà vừa qua
Gửi trang này cho bạn
Ðăng ký bản tin Ban Việt Ngữ
Giúp nghe đài RFA trên mạng »
Tải và cài đặt Audio Player »
Ăng-ten chống phá sóng »
Radio Free Asia
2025 M Street NW, Suite 300, Washington DC 20036, USA 202-530-4900 vietweb@rfa.org RFA Jobs
© 2005 Radio Free Asia
2007.02.18
Trà Mi, phóng viên đài RFA
Từ hơn 3 tháng nay, nữ luật sư bênh vực dân oan Bùi Kim Thành vẫn bị giam giữ tại khoa pháp y B4, bệnh viện tâm thần Biên Hoà tuy chưa có một án lệnh hay bệnh án cụ thể nào được công bố, mặc dù đã có nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế lên tiếng yêu cầu nhà nước Việt Nam phóng thích bà.
Bấm vào đây để nghe cuộc phỏng vấn này
Tải xuống để nghe
Luật sư Bùi Kim Thành. File photo
Bấy lâu nay, ngoại trừ thân nhân, không ai được phép vào thăm viếng hoặc gửi quà cho bà. Hôm chủ nhật vừa qua, một số dân oan từng được luật sư Thành trợ giúp pháp lý đã tìm cách tiếp xúc được với bà, và được biết chính người nhà của bà đã có đơn xin bảo lãnh nhưng bị chính quyền từ chối. Qua câu chuyện với Trà Mi, anh Bình, một dân oan từ miền Tây, thuật lại chi tiết buổi gặp gỡ.
Dân oan từ miền Tây: Chủ nhật trước chúng tôi có vào thăm luật sư Thành, được tiếp xúc trực tiếp với bà khoảng 10 phút.
Trà Mi: Được biết là lâu nay bà con dân oan không được phép tiếp xúc với luật sư Thành, nhưng lần này vì lý do gì mà bà con được gặp trực tiếp luật sư, thưa anh?
Dân oan từ miền Tây: Lần này vì chủ nhật bệnh viện vắng, họ nghỉ việc, chúng tôi lén đến thăm lúc đó chỉ còn duy nhất 1 người trực ở đó nên chúng tôi năn nỉ mãi người này mới động lòng cho gặp 5 phút, nhưng chúng tôi ráng nấn ná nói chuyện được 10 phút, chứ không phải dễ gì gặp được chị Thành.
Trà Mi: Anh thấy tình trạng sức khoẻ của luật sư Thành trong lần gặp gỡ này như thế nào?
Dân oan từ miền Tây: Lúc này có vẻ luật sư cũng tiều tuỵ, không được mạnh khoẻ như trước kia, vì bị chích thuốc nhiều quá, mấy chục mũi thuốc rồi mà các loại thuốc đó gây ảnh hưởng dữ lắm. Thấy chị Thành khờ khạo đi, không còn minh mẫn như lúc trước nữa vì nhiều khi họ cũng cố tình làm vậy để tạo chứng cớ.
Lúc này có vẻ luật sư cũng tiều tuỵ, không được mạnh khoẻ như trước kia, vì bị chích thuốc nhiều quá, mấy chục mũi thuốc rồi mà các loại thuốc đó gây ảnh hưởng dữ lắm. Thấy chị Thành khờ khạo đi, không còn minh mẫn như lúc trước nữa vì nhiều khi họ cũng cố tình làm vậy để tạo chứng cớ.
Dân oan từ miền Tây
Họ đã lỡ đưa vào đây với lý do tâm thần mà dân chúng tôi kiện nhiều quá, quốc tế cũng lên án nhiều thì chắc họ cũng làm sao để chị Thành có dấu hiệu bị tâm thần, nếu sau này đưa ra ánh sáng mà chị Thành không bị bệnh thì họ sẽ lãnh trách nhiệm.
Trà Mi: Luật sư Bùi Kim Thành có cho biết tình trạng của bà hiện nay trong bệnh viện tâm thần Biên Hoà ra sao, được đối đãi và điều trị như thế nào không ạ?
Dân oan từ miền Tây: Luật sư nói là có khi dấu thuốc được thì quăng đi sợ uống nhiều bị ảnh hưởng, có khi có người bắt ép phải uống. Thật ra không hỏi được nhiều vì gặp ngắn ngủi quá. Với lại chúng tôi có hỏi thăm tình hình gia đình luật sư ra sao.
Chị Thành có cho biết chồng chị có làm đơn xin bảo lãnh cho chị về nhưng chính quyền không cho với lý do giữ lại để trị bệnh, nhưng thật ra đây là một hình thức giam lỏng chị ấy mà thôi. Chính luật sư Thành nói với tôi là nếu có được thả về chắc cũng phải đợi ít nhất là sau bầu cử quốc hội vì theo bà, có lẽ họ không thả bà ra là vì sợ bà ra ứng cử gây ảnh hửơng vì mấy năm trước bà có ứng cử nhiều lần rồi nhưng bị ngăn cản.
Trà Mi: Ngoài ra thì luật sư Thành có nhắn gửi gì với bà con dân oan hay không?
Dân oan từ miền Tây: Chị Thành có dặn nhắn với dân oan là bà con hãy tiếp tục cố gắng, vì chị hiện nay vì tình trạng sức khoẻ, sự ảnh hưởng tính mạng và con cái gia đình nên chị xin tạm ngưng không làm luật sư cho dân oan và cho đảng dân chủ nữa. Chị ấy cũng động viên chúng tôi nên cố gắng, dù không có luật sư Thành thì cũng phải vươn lên, đừng khuất phục trước thế lực nào.
Luật sư Thành tâm sự nói rằng trong ấy bây giờ chị cũng chán nản, bực bội quá, như chim bị nhốt trong lồng. Chị cũng nán và buồn lắm nên mới xin nghỉ không làm luật sư cho dân, cho đảng dân chủ nữa để họ thả chị về đoàn tụ với gia đình dịp Tết mà cũng không được. Nhiều nơi đã lên tiếng mà nhà nước này coi như mắt nhắm tai ngơ không ai nghe hết.
Trà Mi: Luật sư Thành có cho biết là trong thời gian bà bị giam từ 3 tháng nay có phái đoàn nước ngoài nào đến thăm và làm việc hay gặp gỡ bà trong bệnh viện Biên Hoà hay không?
Dân oan từ miền Tây: Chưa, bà nói có nghe đồn vậy thôi chứ chưa thấy ai đến hỏi chuyện, tiếp xúc với bà cả.
Trà Mi: Xin cảm ơn anh đã dành thời gian cho cuộc trao đổi này.
(Xin theo dõi nội dung câu chuyện trong phần âm thanh bên trên)
Theo dòng câu chuyện:
- Lời kể của một nạn nhân từng bị giam giữ tại bệnh viện tâm thần Biên Hòa (phần 2)
- Lời kể của một nạn nhân từng bị giam giữ tại bệnh viện tâm thần Biên Hòa (phần 1)
- Đơn tố cáo của nữ Luật sư Bùi Kim Thành
- Nữ Luật sư Bùi Kim Thành bị đưa vào bệnh viện tâm thần?
Thông tin trên mạng:
- Viet Nam: Fear for safety/torture/ill-treatment/arbitrary detention: Bui Thi Kim Thanh (f)
- Viet Nam: Fear for safety/torture/ill-treatment/arbitrary detention: Bui Thi Kim Thanh (f)
- Lawyer Bui Thi Kim Thanh is being held against her will
- Viet Nam: Human rights defender held against her will
Tiếng Việt
© 2007 Radio Free Asia
Các tin, bài liên quan
Tình trạng nguy cấp về sức khoẻ của nhà báo Nguyễn Vũ Bình
Chủ tịch Sáng hội Rafto trả lời phỏng vấn RFA về chuyện bị cấm vào Việt Nam
Nhiều dấu hiệu "quan ngại" được phát hiện ngay tại tư gia của bác sĩ Phạm Hồng Sơn
Ky sư Bạch Ngọc Dương bị hành hung trên đường phố Hà Nội
Kỷ sư Bạch Ngọc Dương thuật lại chuyện bị công an hành hung
Bà Bùi Thị Kim Ngân: Anh Bình bị kỳ thị và phải còng tay khi đi khám bệnh
Dân oan trông mong vào công lý và quản trị của chính phủ
Luật sư Lê Thị Công Nhân kể lại sự việc bị công an bố ráp, bắt giữ
Phỏng vấn thân mẫu luật sư Lê Thị Công Nhân về việc khám nhà vừa qua
Gửi trang này cho bạn
Ðăng ký bản tin Ban Việt Ngữ
Giúp nghe đài RFA trên mạng »
Tải và cài đặt Audio Player »
Ăng-ten chống phá sóng »
Radio Free Asia
2025 M Street NW, Suite 300, Washington DC 20036, USA 202-530-4900 vietweb@rfa.org RFA Jobs
© 2005 Radio Free Asia
lundi 12 février 2007
index
- World Time - The World Clock - Time Zones - World Time
- Menu: Audio Hoi luan va thoi su
VIET NAM
* Tuyên ngôn Tudo Dân Chủ 2006, khối 8406 : đọc bởi Lm NV Lý
* Tin tức về Linh mục Nguyễn Văn Lý (Bản tin ngày 22-03-2007)
* Thay luật sư bào chữa cho nhóm Lm. Lý và hai Ls. Nhân & Ðài
* http://taychaybaucu20x5.com/
* Tại sao việc Tẩy chay Bầu cử QH độc đảng 2007 chắc chắn thành công?
1- Thời sự VN - Thế giới - [Google News]
2- Tin tức - đấu tranh Tự do Dân chủ cho VN
3- HV: thủ đoạn - tội ác cs (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8- đ/v Tôn giáo)
* Kẻ trộm linh hồn
* TÌM THỦ PHẠM CÁC TỘI ÁC CỦA VC - (bis)
* TỰ DO DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN !!
___________________________________________________
______ DAT NUOC TOI ______
Nước VN chạy dài từ Ải Nam quan đến Mũi Cà Mau !!
-----
Phản ứng của dư luận Việt Nam về vụ bắt giữ các nhà tranh đấu
2007.03.14
Gia Minh, phóng viên đài RFA
Vào ngày thứ hai 12 tháng 3 vừa qua, nhiều cơ quan truyền thông trong nước loan tin việc hai luật sư bất đồng chính kiến vừa mới bị cơ quan công an Việt Nam bắt tạm giam về tội danh tuyên truyền chống phá nhà nuớc XHCN, nay bị xóa tên khỏi đòan luật sư Hà Nội và bị rút thẻ hành nghề.
Nghe bài tường trình này
Tải xuống để nghe
Nữ Luật sư Lê Thị Công Nhân. File Photo
Đó là ý kiến của phía chính quyền được phương tiện thông tin đại chúng trong nước loan đi. Trong khi đó tin tức từ một số hãng thông tấn quốc tế như Reuters cho biết đại diện của ít nhất 30 quốc gia đã bày tỏ quan ngại về những vụ bắt bớ đối lập gần đây; còn luồng ý kiến ngược lại ở ngay chính trong nước thì thế nào? Gia Minh trình bày vấn đề trong phần sau.
Các trang báo mạng của Việt Nam như Tuổi Trẻ, VNExpress, Hà Nội Mới, Dân Trí, Lao Động… vào ngày đầu tuần này đều đăng bài với nội dung lên án hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân là vi phạm phát luật Việt Nam.
Riêng tờ Lao Động online trích đăng lại bài viết của tờ An Ninh Nhân Dân trong mục Bạn Đọc Viết nhưng đó là bài trích đăng hòan tòan.
Về phía một số người sau khi nghe tin về việc bắt giữ hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân do các họat động đấu tranh cho dân chủ lâu nay thì họ có ý kiến trái ngược với những phần nội dung của các bài báo đề cập đến thân thế cũng như và quá trình họat động của luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân.
Ông Vũ Cao Quận, một cựu chiến binh năm nay đã 75 tuổi từ Hải Phòng, có bài viết đưa lên mạng trong tuần qua. Lời văn chân tình như “Với Lê thị Công Nhân, tôi chỉ là một người dưng… nhưng khi nghe tin Đài và con bị bắt, lòng tôi quặn đau, căm phẫn và vô cùng lo lắng cho con hơn cả con gái của mình. Vì con gái tôi nó vốn là đứa yếu đuối nhút nhát. Nếu bị bắt nó sẽ cam lòng khuất phục, còn con là đứa con gái bé bỏng nhưng đầy lòng can đảm, nhà cầm quyền cộng sản sẽ tiêu diệt đến cùng lòng dũng cảm của con”.
Và ông khần thiết kếu gọi các vị lãnh đạo những quốc gia, cộng đồng dân chủ như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản lên tiếng can thiệp cho nữ luật sư Lê Thị Công Nhân. Ông có phát biểu: “Trước hết tôi đã bảo rằng cả cuộc đời chính chiến của tôi người ta nói chúng tôi gan dạ, nhưng tôi phải ngã mũ chào lớp trẻ như Lê thị Công Nhân và một số an hem khác nữa. Đằng trước tuổi trẻ của họ còn là sự nghiệp, tri thức, tiền bạc, hạnh phúc riêng tư mà dám dấn thân vào cuộc đấu tranh cho dân chủ thế này thì chúng tôi kính trọng các cháu.”
Tại Việt Nam hiện nay, nhiều người dân do oan ức vì bị xử không công bằng trong những vụ tranh chấp với các cơ quan chính quyền địa phương phải ra tận trung ương để khiếu kiện.
Trong quá trình đó họ tìm đến những vị luật sư và một số nhà công khai đấu tranh cho dân chủ nhân quyền tại Việt Nam để xin ý kiến tư vấn giúp đỡ về mặt pháp lý.
Cả cuộc đời chính chiến của tôi người ta nói chúng tôi gan dạ, nhưng tôi phải ngã mũ chào lớp trẻ như Lê thị Công Nhân và một số anh em khác nữa. Đằng trước tuổi trẻ của họ còn là sự nghiệp, tri thức, tiền bạc, hạnh phúc riêng tư mà dám dấn thân vào cuộc đấu tranh cho dân chủ thế này thì chúng tôi kính trọng các cháu.
Cựu chiến binh Quân đội Nhân dân VN Vũ Cao Quận, Hải Phòng.
Văn phòng tư vấn luật Thiên Ân do luật sư Nguyễn Văn Đài làm giám đốc và luật sư Lê thị Công Nhân có tham gia làm việc tại đó. Chị Vũ Thanh Phương, một người trong số những người dân phải ra tận Hà Nội để khiếu kiện và từng tiếp xúc với nữ luật sư Lê Thị Công Nhân đưa ra ý kiến về sự kiện tạm bắt giam đối với những nhà đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền gần đây:
“Nếu căn cứ theo hiến pháp nuớc CHXHCNVN, và các công cước quốc tế về những quyền căn bản của con nguời thì luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân không vi phạm gì hết.”
Sau khi diễn ra sự việc bắt bớ những nhà công khai đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam thì nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa từ Hải Phòng cũng bày tỏ ý kiến qua bài viết đưa lên mạng.
Trong bài viết của nhà văn này có đọan đề cập đến trường hợp nữ luật sư Lê thị Công Nhân: “Đó là một chiếc lá xanh non của một thân cây xanh non nổi bật giữa hàng ngàn thân cây còn xanh mà đã tàn úa tqâm hồn và ý chí đang qua lại ngòai kia ví bị đầu độc bởi học thuyết cộng sản từ trong ghế nhà trường hoặc bị ném vào chiếc máng bố thí bổng lộc của chính quyền,hoặc bị nhào nặn thành nô lệ của nổi sợ cường quyền, thành những viên bi óng ánh trên truyền hình, trên sàn thời trang, trong hộp đêm và các kỳ thi tuyển speaker… đặng thay tấm khăn voan che đậy một xã hội ô nhục.”
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa cũng có những phát biểu sau đây về vấn đề liên quan: “Việc bắt giam Linh mục Nguyễn Văn Lý, Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân là việc làm vô cùng nham hiểm, vừa vi hiến và vừa bất nhân và như tôi viết là ‘khỏi vòng cong đuôi”.
Bà Bùi thị Kim Ngân, vợ của nhà báo Nguyễn Vũ Bình, người đang ờ trong tù cũng vì tội có những bài viết đòi hỏi chính quyền Hà Nội và Đảng Cộng Sản tôn trọng nhân quyền, bày tỏ suy nghĩ trứơc khi hay tin hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân bị gắt tạm giam: “Sự đe dọa và khó khăn của các anh chị thì tôi biết là hằng tuần đều phải đi làm việc nhưng tôi không nghĩ lại nghiêm trọng đến thế.”
Ông Phạm Hồng Sơn, người từng bị chính quyền Hà Nội kế án tù giam do dịch tài liệu ‘Thế nào là dân chủ’ trên trang mạng của Sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam ra tiếng Việt, cũng có bài viết phân tích về những kết án mà cơ quan an ninh đang ghép cho hai luật sư Nguyễn văn Đài và Lê thị Công Nhân, rồi ông phạm Hồng Sơn có yêu cầu “Nếu như sự cáo buộc cũng như quá trình tố tụng không đảm bảo được tính công khai, minh bạch- xu hướng tiến bộ của nhân lọai, thì chính những cáo buộc, truy tố đó là phản động.”
Người phát ngôn Bộ Ngọai giao Việt Nam là ông Lê Dũng thì nhất mực nói rắng ở Việt Nam không hề có những tù nhân lương tâm bị bắt giam vì chính kiến khác biệt của họ đối với nhà cầm quyền.
Bạn nghĩ gì về chiến dịch bắt bớ, trấn áp hiện nay nhắm vào các nhà tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam? Hãy gửi đến Ban Việt Ngữ ý kiến của bạn.
email: vietweb@rfa.org
Theo nhận định của nhiều người trong nước thì sau khi Việt Nam đăng cai tổ chức thượng đĩnh Diễn đàn hợp tác Kinh tế Á châu- Thái bình Dương và được thu nạp vào Tổ chức Thương Mại Thế giới WTO thì nay chính quyền Hà Nội ra tay đàn áp các thành phần đối lập trong nước.
Tiếng Việt
nguon
--------------------------------------------------------------------------------
© 2007 Radio Free Asia
-------------------------------------------------------------------
Các tin, bài liên quan
Hội luận trong-ngoài nước về điều 88, tội tuyên truyền chống nhà nước XHCNVN
Công an Hà Nội bắt giữ Luật sư Lê Quốc Quân
Phỏng vấn Nữ Dân biểu Zoe Lofgren về vấn đề vi phạm nhân quyền ở Việt Nam
Công an đe doạ sẽ doạ bắt ông Phương Nam-Đỗ Nam Hải nếu tham dự cuộc hội luận với RFA
Cập nhật những thông tin về Linh mục Nguyễn Văn Lý
2 Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân bị xóa tên khỏi Luật sư đoàn Hà Nội
Nữ Dân biểu Zoe Lofgren yêu cầu Ngoại trưởng Mỹ quan tâm đến vấn đề đàn áp dân chủ tại VN
Tình trạng hiên nay của Luật sư Nguyễn Văn Đài trong tù
Việt Nam bác bỏ cáo buộc gia tăng đàn áp các nhà bất đồng chính kiến
-----------------------------------------------------------------
Tham khao them:
- SỰ THẬT VỀ VIỆC BÃI BỎ NGHỊ ĐỊNH 31/CP NGÀY 14.4.1997
- 16/3/07 - VC sẽ mang cha Ly xử theo luật rừng
- Thư gởi chị Lê thị Công Nhân nguon
- Phát biểu của ls Le thi Công Nhân nhân dịp có cuộc biểu tình ở USA phản đối cs đàn áp Lm Lý (audio) bai viet
- Vết nhơ của giới trí thức VN : Luật sư đoàn Hà Nội
- gs NCKet_Hoi thao va tuong trinh ve Nhan quyen o VN truoc to chuc quoc te tai Oslo Nauy
___________________________________________________
Vdict
- Menu: Audio Hoi luan va thoi su
VIET NAM
* Tuyên ngôn Tudo Dân Chủ 2006, khối 8406 : đọc bởi Lm NV Lý
* Tin tức về Linh mục Nguyễn Văn Lý (Bản tin ngày 22-03-2007)
* Thay luật sư bào chữa cho nhóm Lm. Lý và hai Ls. Nhân & Ðài
* http://taychaybaucu20x5.com/
* Tại sao việc Tẩy chay Bầu cử QH độc đảng 2007 chắc chắn thành công?
1- Thời sự VN - Thế giới - [Google News]
2- Tin tức - đấu tranh Tự do Dân chủ cho VN
3- HV: thủ đoạn - tội ác cs (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8- đ/v Tôn giáo)
* Kẻ trộm linh hồn
* TÌM THỦ PHẠM CÁC TỘI ÁC CỦA VC - (bis)
* TỰ DO DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN !!
___________________________________________________
______ DAT NUOC TOI ______
Nước VN chạy dài từ Ải Nam quan đến Mũi Cà Mau !!
-----
Phản ứng của dư luận Việt Nam về vụ bắt giữ các nhà tranh đấu
2007.03.14
Gia Minh, phóng viên đài RFA
Vào ngày thứ hai 12 tháng 3 vừa qua, nhiều cơ quan truyền thông trong nước loan tin việc hai luật sư bất đồng chính kiến vừa mới bị cơ quan công an Việt Nam bắt tạm giam về tội danh tuyên truyền chống phá nhà nuớc XHCN, nay bị xóa tên khỏi đòan luật sư Hà Nội và bị rút thẻ hành nghề.
Nghe bài tường trình này
Tải xuống để nghe
Nữ Luật sư Lê Thị Công Nhân. File Photo
Đó là ý kiến của phía chính quyền được phương tiện thông tin đại chúng trong nước loan đi. Trong khi đó tin tức từ một số hãng thông tấn quốc tế như Reuters cho biết đại diện của ít nhất 30 quốc gia đã bày tỏ quan ngại về những vụ bắt bớ đối lập gần đây; còn luồng ý kiến ngược lại ở ngay chính trong nước thì thế nào? Gia Minh trình bày vấn đề trong phần sau.
Các trang báo mạng của Việt Nam như Tuổi Trẻ, VNExpress, Hà Nội Mới, Dân Trí, Lao Động… vào ngày đầu tuần này đều đăng bài với nội dung lên án hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân là vi phạm phát luật Việt Nam.
Riêng tờ Lao Động online trích đăng lại bài viết của tờ An Ninh Nhân Dân trong mục Bạn Đọc Viết nhưng đó là bài trích đăng hòan tòan.
Về phía một số người sau khi nghe tin về việc bắt giữ hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân do các họat động đấu tranh cho dân chủ lâu nay thì họ có ý kiến trái ngược với những phần nội dung của các bài báo đề cập đến thân thế cũng như và quá trình họat động của luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân.
Ông Vũ Cao Quận, một cựu chiến binh năm nay đã 75 tuổi từ Hải Phòng, có bài viết đưa lên mạng trong tuần qua. Lời văn chân tình như “Với Lê thị Công Nhân, tôi chỉ là một người dưng… nhưng khi nghe tin Đài và con bị bắt, lòng tôi quặn đau, căm phẫn và vô cùng lo lắng cho con hơn cả con gái của mình. Vì con gái tôi nó vốn là đứa yếu đuối nhút nhát. Nếu bị bắt nó sẽ cam lòng khuất phục, còn con là đứa con gái bé bỏng nhưng đầy lòng can đảm, nhà cầm quyền cộng sản sẽ tiêu diệt đến cùng lòng dũng cảm của con”.
Và ông khần thiết kếu gọi các vị lãnh đạo những quốc gia, cộng đồng dân chủ như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản lên tiếng can thiệp cho nữ luật sư Lê Thị Công Nhân. Ông có phát biểu: “Trước hết tôi đã bảo rằng cả cuộc đời chính chiến của tôi người ta nói chúng tôi gan dạ, nhưng tôi phải ngã mũ chào lớp trẻ như Lê thị Công Nhân và một số an hem khác nữa. Đằng trước tuổi trẻ của họ còn là sự nghiệp, tri thức, tiền bạc, hạnh phúc riêng tư mà dám dấn thân vào cuộc đấu tranh cho dân chủ thế này thì chúng tôi kính trọng các cháu.”
Tại Việt Nam hiện nay, nhiều người dân do oan ức vì bị xử không công bằng trong những vụ tranh chấp với các cơ quan chính quyền địa phương phải ra tận trung ương để khiếu kiện.
Trong quá trình đó họ tìm đến những vị luật sư và một số nhà công khai đấu tranh cho dân chủ nhân quyền tại Việt Nam để xin ý kiến tư vấn giúp đỡ về mặt pháp lý.
Cả cuộc đời chính chiến của tôi người ta nói chúng tôi gan dạ, nhưng tôi phải ngã mũ chào lớp trẻ như Lê thị Công Nhân và một số anh em khác nữa. Đằng trước tuổi trẻ của họ còn là sự nghiệp, tri thức, tiền bạc, hạnh phúc riêng tư mà dám dấn thân vào cuộc đấu tranh cho dân chủ thế này thì chúng tôi kính trọng các cháu.
Cựu chiến binh Quân đội Nhân dân VN Vũ Cao Quận, Hải Phòng.
Văn phòng tư vấn luật Thiên Ân do luật sư Nguyễn Văn Đài làm giám đốc và luật sư Lê thị Công Nhân có tham gia làm việc tại đó. Chị Vũ Thanh Phương, một người trong số những người dân phải ra tận Hà Nội để khiếu kiện và từng tiếp xúc với nữ luật sư Lê Thị Công Nhân đưa ra ý kiến về sự kiện tạm bắt giam đối với những nhà đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền gần đây:
“Nếu căn cứ theo hiến pháp nuớc CHXHCNVN, và các công cước quốc tế về những quyền căn bản của con nguời thì luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân không vi phạm gì hết.”
Sau khi diễn ra sự việc bắt bớ những nhà công khai đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam thì nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa từ Hải Phòng cũng bày tỏ ý kiến qua bài viết đưa lên mạng.
Trong bài viết của nhà văn này có đọan đề cập đến trường hợp nữ luật sư Lê thị Công Nhân: “Đó là một chiếc lá xanh non của một thân cây xanh non nổi bật giữa hàng ngàn thân cây còn xanh mà đã tàn úa tqâm hồn và ý chí đang qua lại ngòai kia ví bị đầu độc bởi học thuyết cộng sản từ trong ghế nhà trường hoặc bị ném vào chiếc máng bố thí bổng lộc của chính quyền,hoặc bị nhào nặn thành nô lệ của nổi sợ cường quyền, thành những viên bi óng ánh trên truyền hình, trên sàn thời trang, trong hộp đêm và các kỳ thi tuyển speaker… đặng thay tấm khăn voan che đậy một xã hội ô nhục.”
Ông Nguyễn Xuân Nghĩa cũng có những phát biểu sau đây về vấn đề liên quan: “Việc bắt giam Linh mục Nguyễn Văn Lý, Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân là việc làm vô cùng nham hiểm, vừa vi hiến và vừa bất nhân và như tôi viết là ‘khỏi vòng cong đuôi”.
Bà Bùi thị Kim Ngân, vợ của nhà báo Nguyễn Vũ Bình, người đang ờ trong tù cũng vì tội có những bài viết đòi hỏi chính quyền Hà Nội và Đảng Cộng Sản tôn trọng nhân quyền, bày tỏ suy nghĩ trứơc khi hay tin hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân bị gắt tạm giam: “Sự đe dọa và khó khăn của các anh chị thì tôi biết là hằng tuần đều phải đi làm việc nhưng tôi không nghĩ lại nghiêm trọng đến thế.”
Ông Phạm Hồng Sơn, người từng bị chính quyền Hà Nội kế án tù giam do dịch tài liệu ‘Thế nào là dân chủ’ trên trang mạng của Sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam ra tiếng Việt, cũng có bài viết phân tích về những kết án mà cơ quan an ninh đang ghép cho hai luật sư Nguyễn văn Đài và Lê thị Công Nhân, rồi ông phạm Hồng Sơn có yêu cầu “Nếu như sự cáo buộc cũng như quá trình tố tụng không đảm bảo được tính công khai, minh bạch- xu hướng tiến bộ của nhân lọai, thì chính những cáo buộc, truy tố đó là phản động.”
Người phát ngôn Bộ Ngọai giao Việt Nam là ông Lê Dũng thì nhất mực nói rắng ở Việt Nam không hề có những tù nhân lương tâm bị bắt giam vì chính kiến khác biệt của họ đối với nhà cầm quyền.
Bạn nghĩ gì về chiến dịch bắt bớ, trấn áp hiện nay nhắm vào các nhà tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam? Hãy gửi đến Ban Việt Ngữ ý kiến của bạn.
email: vietweb@rfa.org
Theo nhận định của nhiều người trong nước thì sau khi Việt Nam đăng cai tổ chức thượng đĩnh Diễn đàn hợp tác Kinh tế Á châu- Thái bình Dương và được thu nạp vào Tổ chức Thương Mại Thế giới WTO thì nay chính quyền Hà Nội ra tay đàn áp các thành phần đối lập trong nước.
Tiếng Việt
nguon
--------------------------------------------------------------------------------
© 2007 Radio Free Asia
-------------------------------------------------------------------
Các tin, bài liên quan
Hội luận trong-ngoài nước về điều 88, tội tuyên truyền chống nhà nước XHCNVN
Công an Hà Nội bắt giữ Luật sư Lê Quốc Quân
Phỏng vấn Nữ Dân biểu Zoe Lofgren về vấn đề vi phạm nhân quyền ở Việt Nam
Công an đe doạ sẽ doạ bắt ông Phương Nam-Đỗ Nam Hải nếu tham dự cuộc hội luận với RFA
Cập nhật những thông tin về Linh mục Nguyễn Văn Lý
2 Luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân bị xóa tên khỏi Luật sư đoàn Hà Nội
Nữ Dân biểu Zoe Lofgren yêu cầu Ngoại trưởng Mỹ quan tâm đến vấn đề đàn áp dân chủ tại VN
Tình trạng hiên nay của Luật sư Nguyễn Văn Đài trong tù
Việt Nam bác bỏ cáo buộc gia tăng đàn áp các nhà bất đồng chính kiến
-----------------------------------------------------------------
Tham khao them:
- SỰ THẬT VỀ VIỆC BÃI BỎ NGHỊ ĐỊNH 31/CP NGÀY 14.4.1997
- 16/3/07 - VC sẽ mang cha Ly xử theo luật rừng
- Thư gởi chị Lê thị Công Nhân nguon
- Phát biểu của ls Le thi Công Nhân nhân dịp có cuộc biểu tình ở USA phản đối cs đàn áp Lm Lý (audio) bai viet
- Vết nhơ của giới trí thức VN : Luật sư đoàn Hà Nội
- gs NCKet_Hoi thao va tuong trinh ve Nhan quyen o VN truoc to chuc quoc te tai Oslo Nauy
___________________________________________________
HoaiVong
Index:qhx cadao
CheckIp Index:qhx
Vdict
mardi 6 février 2007
Nhan xet tong quat ve HP nuoc CHXHCN VN 1992
Luật Sư Đào Tăng Dực:
NHẬN XÉT TỔNG QUÁT VỀ HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1992
(Trích cuốn “Việt Nam Dân Chủ Tranh Đấu Luận” của Luật Sư Đào Tăng Dực, Việt Luận Xuất Bản năm 1997,tt172-194, Tại Sydney, Úc Đại Lợi)
Trong khi hàng ngũ quốc gia chưa được củng cố thực sự thì người cộng sản đã có những biện pháp trên nguyên tắc để biện minh cho sự hiện hữu tiếp tục của họ trong lịch sử, và trên thực tế, để củng cố quyền hành của đảng.
Đó là sự sáng tạo và đề cao quan điểm mà họ mệnh danh một cách kiêu sa là “Pháp chế xã hội chủ nghiã”, được thể hiện trọn vẹn trong bản hiến pháp 1992. Sau khi đã đọc bản hiến pháp này rồi thì chúng ta nhận thấy rằng, nếu các đảng phái quốc gia làm cho chúng ta thất vọng vì tính chất thiếu chuyên nghiệp của họ như là những tổ chức chính trị, thì đảng cộng sản Việt Nam lại càng làm cho chúng ta thất vọng lớn lao hơn vì sự thiếu lương tri và lòng tham không đáy của họ.
Thật vậy ngày 19.7.1992, người cộng sản Việt Nam cho bầu quốc hội theo hiến pháp mới. Là những người Việt quan tâm đến vận mệnh của đất nước, khi đọc bản hiến pháp năm 1992, ở mặt tiêu cực chúng ta nhận thấy văn kiện này chỉ nhằm thể hiện quyền lợi cá nhân của một số lãnh tụ chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam qua các phương thức sau đây:
1. Tạo ra một bản hiến pháp với một hệ thống quyền lực phức tạp nhưng dưới sự khống chế tuyệt đối của đảng CSVN, để đảng này có thể phân chia quyền lợi cho nhiều lãnh tụ và phe phái khác nhau trong giới lãnh đạo đảng, hầu tránh sự đổ vỡ nội bộ.
2. Với một tinh thần “sáng tạo” mà không một luật gia nào của thế giới văn minh có thể hiểu nổi, cộng sản Việt Nam đưa ra một quan niệm gọi là “pháp chế xã hội chủ nghĩa” để làm căn bản cho bản hiến pháp (điều 12). Bởi vì chế độ “pháp chế xã hội chủ nghĩa” là một chế độ rất “sáng tạo” nên, theo bản hiến pháp này, đảng Cộng Sản Việt Nam, qua các đoàn thể ngoại vi (nhất là Mặt Trận Tổ Quốc) muốn làm gì thì làm.
Chính vì vậy, chế độ “pháp chế xã hội chủ nghĩa” mang nhiều đặc tính mà các luật gia thế giới văn minh thấy rất gần gũi với “luật rừng”. Có nghĩa là thật sự không có luật lệ gì cả, vì luật lệ chỉ là sự phát huy (manifestation) ý chí của kẻ có sức mạnh.
3. Nới lỏng quyền tư hữu một chút, trong niềm tin tưởng chủ quan rằng người dân Việt Nam không giống những con người khác trên thế giới như Tân Gia Ba, Đài Loan, Đại Hàn, Úc, Thái Lan, Hoa Kỳ, Pháp... Người Việt Nam chỉ cần có một chút cơm ăn là đủ, không cần suy nghĩ nhân phẩm, nhân quyền gì cả. Cộng sản Việt Nam hy vọng rằng như một đám súc vật, dân Việt Nam sau khi được cho ăn đủ sống sẽ chấp nhận làm nô lệ cho cộng sản Việt Nam cả đời.
Tuy nhiên ở bình diện tích cực, bản hiến pháp năm 1992 của cộng sản Việt Nam qui định chính thức vị trí đứng của đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ vị trí đứng “kỳ quặc” nhưng rõ rệt này, chúng ta có thể đả phá cộng sản Việt Nam một cách rốt ráo trên cả hai bình diện: đấu tranh quần chúng và quốc tế vận, để đưa đến sự cáo chung nhanh chóng của bản hiến pháp này, hầu thiết lập một thể chế dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên trên quê hương Việt Nam.
Vì các lãnh tụ đảng cộng sản Việt Nam mang nhiều bản chất của một tập thể lãnh đạo một quốc gia chậm tiến, sống nhiều với quá khứ, thiếu sự hiểu biết về những nguyên tắc căn bản để quản trị quốc gia hiện đại, cá nhân các lãnh tụ muốn chia chác quyền lợi, nên bản hiến pháp 1992 được uốn nắn để thể hiện các đặc tính nêu trên.
a. Lời nói đầu của bản hiến pháp
Trong một kỷ nguyên mà ý thức hệ đã hoàn toàn bị đẩy lui vào bóng tối của lịch sử, để nhường bước cho ánh sáng của trí tuệ và khoa học, thì hiến pháp này mở đầu bằng sự ca ngợi đảng Cộng Sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác Lê.
Sự kiện đảng Cộng Sản Việt Nam ngoan cố giam giữ tinh thần sáng tạo của dân tộc Việt Nam trong cái khung thoái hóa và nhỏ bé của ý thức hệ Mác-xít, mặc dù chính người cộng sản không còn tin tưởng nơi ý thức hệ này nữa, là một sự phản bội tổ quốc lớn lao nhất của lịch sử Việt nam.
b. Chế độ chính trị của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chế độ chính trị được qui định bằng các điều khoản trong chương 1 của hiến pháp 1992. Chương 1 nói lên một cách rõ rệt tính cách độc tài đảng trị của chế độ qua các điều khoản sau đây:
1. Điều 4: Đảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
2. Điều 9: Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (MTTQ) và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt Trận Tổ Quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.
3. Điều 10: Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Qua điều 4, đảng CSVN xác quyết tính cách độc đảng trên nguyên tắc. Qua các điều 9 và 10, đảng CSVN hiến định hóa sự cai trị độc đảng qua 2 cơ sở ngoại vi của đảng là Mặt Trận Tổ quốc và Công Đoàn. Chẳng hạn Mặt Trận Tổ Quốc có quyền “giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử” như theo điều 9 của hiến pháp.
Dưới con mắt của luật pháp tại các nước tự do thì đó là phản dân chủ và không nước nào dám làm, lý do là vì Mặt Trận Tổ Quốc không có tư cách đại diện dân cử và do một đảng chính trị giật dây. Tuy nhiên, dưới chế độ “pháp chế xã hội chủ nghĩa” thì đảng CSVN không có đối lập, nên không ai dám phản đối cả, cứ như thế mà làm ra hiến pháp.
Sự hiến định hóa chế độ độc tài đảng trị của đảng CSVN là thành quả đương nhiên của một hiện tượng thoái hóa mà các nhà xã hội học thường gọi là quá trình thể chế hóa phương tiện (Institutionalisaction des Moyens).
Đảng CSVN là một ví dụ rất dễ hiểu của quá trình này. Chẳng hạn, trên nguyên tắc đảng CSVN được thành lập với mục đích xây dựng độc lập và thiên đường cộng sản cho dân tộc Việt Nam. Như thế đảng chỉ là phương tiện, và một khi nước nhà đã được độc lập và thiên đường cộng sản được xây dựng, thì phương tiện đó phải triệt tiêu.
Tuy nhiên, mặc dù nước nhà tuy độc lập, và cộng sản chủ nghĩa đã đổ vỡ toàn diện trên khắp thế giới và ngay trong lòng của từng đảng viên cộng sản Việt Nam, thì những tay lãnh đạo già nua của đảng vẫn không chịu dẹp đảng. Trái lại, những người này biến đảng này từ một phương tiện trở thành một thể chế (institution), có tính cách trường tồn, không lệ thuộc vào các mục tiêu khởi đầu khi đảng được thành lập nữa.
Trong hoàn cảnh dân tộc Việt Nam lại càng bi đát hơn, vì đảng CSVN lại là “thể chế” nắm quyền duy nhất mà không có đối lập. Với một tình huống như vậy, hậu quả đương nhiên là việc quản trị hành chánh, kinh tế sẽ vô cùng thiếu hiệu năng. Đồng thời sự tham nhũng và bất công xã hội sẽ gia tăng mãi mãi, vì quyền lực được tập trung vào một đảng duy nhất, không có một cơ quan nào độc lập ngoài đảng để kiểm soát, thay thế để chấn chỉnh và đưa quốc gia tiến lên, cạnh tranh trong một thế giới mà sự làm việc hiệu năng là yếu tố tương tranh giữa các dân tộc.
Tóm lại từ một đảng phái là công cụ của dân tộc, quá trình thể chế hóa phương tiện đã biến cả dân tốc Việt Nam trở thành một công cụ khổng lồ để phục vụ cho quyền lợi và tham vọng cá nhân của một số lãnh tụ chóp bu của đảng. Hơn nữa, toàn bộ bản hiến pháp 1992 và đặc biệt là Chương 1 (chế độ chính trị), là bằng chứng hùng hồn rằng các lãnh tụ cộng sản đã mất đi khả năng ý thức khách quan về thời gian tính của lịch sử. Họ đang sống ở ngưỡng cữa của thế kỷ 21, ở thời điểm mà các quan niệm về tự do dân chủ, nhân quyền, đa nguyên đang nở hoa ngay tại cựu đế quốc xã hội chủ nghĩa Liên Sô, mà họ vẫn mơ mộng độc tài đảng trị của các thập niên 40 và muốn đi ngược trào lưu tiến hóa của nhân loại.
Thêm vào đó, sự bám víu trên nguyên tắc vào các điều 4, 9 và 10 của hiến pháp còn biểu lộ một thực tại bi đát nữa của nhóm lãnh tụ cộng sản này. Đó là họ không còn nhận thức một cách sáng suốt là đảng CSVN không còn khả năng kiểm soát hàng ngũ đảng viên và các cơ cấu ngoại vi một cách tuyệt đối nữa. Kết quả là hiến pháp khắc ghi trên nguyên tắc một thể chế chính trị sắt máu kiểu Stalin, trong khi những điều kiện khách quan cho thấy đảng CSVN không thể nào khống chế xã hội và chính quyền theo kiểu Stalin được nữa, vì cán bộ đã thoái hóa, tham nhũng cùng cực, mất niềm tin và bi quan cho tương lai của đảng.
c. Chế độ kinh tế
Chương 2, nói về chế độ kinh tế, có nhiều khía cạnh tương đối mới mẻ. Tuy nhiên, sau khi phân tích kỹ lưỡng, chúng ta sẽ thấy sự cải tổ kinh tế nửa vời này sẽ không giải quyết được vấn đề kinh tế dài hạn cho Việt Nam, vì cộng sản Việt Nam còn bị ý thức hệ giáo điều ràng buộc quá nhiều. Hơn nữa, các điều khoản qui định chế độ kinh tế (từ điều 15 đến điều 29) không thể được hiểu như những điều khoản độc lập, mà phải được hiểu như là những thành phần bất khả phân ly với toàn diện bản hiến pháp.
Chính vì thế, tính cách độc tài đảng trị của các điều khoản qui định chế độ chính trị, tính cách thiếu vô tư và độc lập của những điều khoản qui định quyền tư pháp (Toà án Nhân dân và Viện Kiểm soát nhân dân)... sẽ vô hiệu hoá phần lớn những khía cạnh tích cực của các điều khoản qui định chế độ kinh tế, nhất là các điều khoản qui định tư hữu và kinh tế thị trường.
Một cách tóm lược, sau đây là những điều khoản quan trọng của Chương 2:
1. Điều 15: Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
2. Điều 18:...nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, xử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được nhà nước giao theo qui định của pháp luật.
3. Điều 19: Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lãnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
4. Điều 20: Kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.
5. Điều 21: Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được cho hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển.
6. Điều 23: Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định.
Nêu trên là những điều khoản quan trọng nhất của bản hiến pháp 1992, trên phương tiện cải tổ kinh tế. Đây là phương tiện duy nhất có những tiến bộ thật sự. Tuy nhiên dù ở phương diện này, sự cải tổ còn quá nhiều khuyết điểm, sẽ di hại về sau cho nền kinh tế quốc gia, nhất là khi nền kinh tế đã vượt qua được giai đoạn phát triển căn bản và đang đứng trước ngưỡng cữa của sự cất cánh thật sự.
Trước hết, cộng sản Việt Nam hy vọng rằng khi nới rộng về kinh tế, nhưng siết chặt về chính trị, họ sẽ khai phóng một phần nào khả năng sáng tạo vật chất của người Việt Nam, ổn định và phát triển kinh tế, đồng thời giữ được độc quyền chính trị theo kiểu Singapore, Đài Loan hoặc Nam Hàn và Nhật Bổn.
Tuy nhiên họ đã quên những sự sai biệt căn bản giữa thể chế chính trị tại Việt Nam và tại các nước nêu trên.
- Trước hết trên bình diện thể chế, các nước nêu trên không được dân chủ bằng các nước Tây phương mà thôi, chứ các nước đó không phải có những thể chế độc tài tuyệt đối hoặc độc đảng. Các đảng đối lập thật sự vẫn hiện hữu tại các quốc gia Á châu nói trên. Mọi người dân đều thật sự được ứng cử vào các chức vụ chính quyền, chứ không phải bắt buộc phải được Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu mới được ra ứng cử như theo luật bầu cử quốc hội cộng sản Việt Nam.
Chính vì thế, tinh thần tự do sáng tạo của các dân tộc trên ở mức độ cao hơn tại Việt Nam.
- Thứ đến là các quốc gia Á châu nói trên đều đặt nền kinh tế của họ trên “một quan điểm tuyệt đối và triệt để về tư hữu”, không hề bị một chút hoen ố gì về ý thức hệ Mác-Lê. Chỉ có như thế, họ mới khai phóng được toàn diện khả năng sáng tạo vật chất của toàn dân, theo kịp cá nước Tây phương, trong một thế giới mà sự cạnh tranh về kinh tế vô cùng gắt gao.
Trong khi đó thì toàn thể hiến pháp 1992 và ngay cả chương 2 nói về chế độ kinh tế, đều bày tỏ rõ rệt ý thức hệ Mác-Lê lỗi thời. Chúng ta có thể ví dụ nước Việt Nam theo hiến pháp cộng sản này, như một người đã ốm yếu bệnh hoạn rồi, mà còn phải gánh thêm một sức nặng ngàn cân (ý thức hệ Mác-Lê) trong một cuộc chạy đua kinh tế với các lực sĩ Singapore, Đài Loan, Nam Hàn... đã khỏe rồi mà không phải khuân vác gì thêm cả.
Thật vậy, chỉ trong chương 2 thôi, chúng ta thấy rõ ý thức hệ Mác-Lê qua các quan điểm: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.... theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa” (điều 15).
Mặc dầu nền kinh tế gồm có 3 thành phần rõ rệt: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và kinh tế cá thể, bản hiến pháp hầu như qui định một cách rõ rệt thứ tự ưu tiên của 3 thành phần trên:
(i) Kinh tế quốc doanh là ưu tiên số một (điều 19).
(ii) Thứ đến là kinh tế tập thể như hợp tác xã (điều 20).
(iii) Sau chót là kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân (điều 21).
Thứ tự ưu tiên trên cho chúng ta thấy quan niệm về tư hữu trong hiến pháp là một quan niệm có thứ tự ưu tiên chót. Không thể so sánh với quan điểm tích cực và tuyệt đối về tư hữu của Singapore, Đài Loan, Nam Hàn và Nhật Bổn được.
- Ngoài ra, một hiểm họa lớn cho nền kinh tế quốc gia, là bản hiến pháp này sẽ tạo ra một hiện tượng “tê liệt kinh niên của nền kinh tế như các quốc gia Châu Mỹ La Tinh”, hoặc Ấn độ. Lý do là vì nền kinh tế quốc doanh, đã và đang là một nền kinh tế thiếu hiệu năng, tham nhũng, nay được chính thức hiến định hóa để trở thành căn bản của kinh tế quốc gia, sẽ làm cho quốc gia vỡ nợ nhanh chóng hơn. Thêm vào đó, kinh tế tập thể (một hình thức hợp tác xã) không phải là một hình thức tổ chức kinh doanh có hiệu năng cao nhất. Thật vậy, trong môi trường cạnh tranh ráo riết về kinh tế thế giới hiện nay, các hợp tác xã chỉ là những tàn tích của một quan niệm tổ chức kinh tế lỗi thời.
Hiến định hóa vị trí ưu tiên của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể (hợp tác xã) so với kinh tế cá thể và tư bản tư nhân, trong thời điểm này, là một hành động cố chấp, vô trách nhiệm và sẽ di hại nặng nề cho nền kinh tế quốc gia. Trên phương diện luật hiến pháp (constitutional law) thì ngay cả khi chính phủ muốn tư hữu hóa những cơ sở kinh tế quốc doanh lỗ lã, thiếu hiệu năng, cũng chưa chắc được vì theo tinh thần của hiến pháp, sẽ là một hành động vi hiến.
Chính vì những khuyết điểm trên, Chương 2 của bản hiến pháp này sẽ đưa nước Việt Nam vào hàng ngũ của các quốc gia bệnh hoạn trầm kha về kinh tế như các quốc gia Châu Mỹ La Tinh, trong suốt nhiều thập niên của thế kỷ 21.
- Hơn nữa, điều 23 (dẫn thượng), trong một chế độ độc đảng, không thể bảo đảm quyền tư hữu được. Lý do là vì đảng Cộng Sản Việt Nam là trung tâm quyền lực bao trùm cả 3 ngành: Hành pháp (gồm quân đội và công an), Lập pháp (các dân biểu bù nhìn) và Tư pháp (tòa án thật sự chỉ theo lệnh đảng). Dù cho Hành pháp có trắng trợn vi hiến và tước đoạt quyền tư hữu của một cá nhân, thì không có một tòa án nào dám bênh vực cho cá nhân ấy.
Các dân biểu bù nhìn sẽ không ngần ngại tuân lệnh đảng, đưa ra những luật lệ ngang nhiên vi hiến, tước quyền tư hữu. Lúc đó cũng sẽ không có một tòa án nào lên tiếng được, vì ý kiến của đảng sẽ là tuyệt đối và không có đối lập.
Quan điểm “tư hữu” trong hiến pháp như vậy chỉ là một quan điểm nửa vời mà cộng sản Việt Nam buộc lòng phải xử dụng qua loa để mong sống còn, chứ không phải một sự cải tổ kinh tế thật sự để đưa quốc gia vào đà phát triển chung của thế giới.
Trên bình diện nhu cầu kinh tế, quốc gia Việt Nam, vì đã qua hơn 40 năm cộng sản tại miền Bắc, hơn 20 năm cộng sản tại miền Nam, không còn trì hoãn được. Yếu tố thời gian vô cùng cấp bách. Một quan điểm tích cực và toàn diện về tư hữu như các nước Singapore, Đài Loan cũng chưa chắc đã giải quyết được phương trình kinh tế Việt Nam, huống hồ là một quan điểm tư hữu què quặc, nặng mùi ý thức hệ và tham quyền cố vị của những người cộng sản Việt Nam. Những mức độ phát triển kinh tế tương đối khả dĩ hiện nay (GDP: 9.5% cho 1996, 9.5% cho 1995 và 8.8% cho 1994 theo tạp chí The Vietnam Business Journal,op. cit. tr.16) một phần phản ảnh sự bộc phát không kềm hãm được của một nền kinh tế từ lâu bị một bàn tay sắt khống chế, và một phần phản ảnh mức độ kinh tế thấp một cách cưỡng bách giả tạo của một quốc gia quá nghèo. Một khi nền kinh tế phát triển đến một mức độ cao hơn và đứng trước ngưỡng cữa của thế giới những quốc gia tự do về kinh tế thật sự, thì nội dung trên của bản hiến pháp sẽ biến thành một trở lực lớn lao cho dân tộc.
Chúng ta phải đau buồn mà kết luận rằng trong cuộc thử thách lớn lao này, người cộng sản Việt Nam cũng như giới sĩ phu triều Nguyễn, chứng tỏ rõ ràng với dân tộc và lịch sử rằng, họ đã đặt quyền lợi của phe nhóm và cá nhân trên quyền lợi của dân tộc Việt Nam.
- Sau cùng, bản hiến pháp 1992 một lần nữa hiến định hoá sự độc đảng. Với sự độc đảng này, tệ nạn tham nhũng vốn đã là một căn bệnh kinh niên không thuốc chữa (vì không có đối lập) sẽ trở nên tệ hại hơn đưa đến sự đổ vỡ xã hội và có thể kéo theo luôn sự cáo chung của chính đảng Cộng Sản Việt Nam. Có thể nói, bằng cách hiến định hóa sự độc đảng, cộng sản Việt Nam đã gián tiếp hiến định hóa sự tham nhũng theo câu châm ngôn phổ thông là “quyền lực tuyệt đối sẽ làm tham nhũng tuyệt đối” (Absolute power corrupts absolutely).
d. Chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ
Chương 3 của bản hiếp pháp qui định chế độ này. Điều đáng tiếc là chế độ văn hóa giáo dục có quá nhiều yếu tố ý thức hệ lỗi thời, trong một kỷ nguyên mà khoa học, nhân bản, nhân quyền đã chói sáng khắp nơi trên thế giới.
Thật vậy, điều 30 nói đến “tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản động”.
Điều 31: Yêu chế độ Xã hội Chủ nghĩa
Điều 34: Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử cách mạng.
Điều 36: Các đoàn thể nhân dân, trước hết là Đoàn Thanh Niên Hồ Chí Minh... có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
Thay vì, tôn trọng nhân phẩm và sự thông minh của người Việt Nam, bằng cách cho giảng dạy các văn kiện của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền và dân quyền theo mô thức các nước Đông Âu, thì cộng sản Việt Nam muốn khuynh đảo tư tưởng của giới trẻ Việt Nam bằng ý thức hệ Mác-Lê.
Tuy nhiên, đây chỉ là một hành động tuyệt vọng của một tập thể không còn ý thức được thực trạng xã hội và giới hạn quyền lực của mình. Thực trạng xã hội là không còn ai tin tưởng đảng và ý thức hệ Mác-Lê nữa.
Có nêu ra trong hiến pháp cũng chỉ là hình thức suông. Giới hạn quyền lực của đảng là sự tham nhũng và thối nát đã quá hoành hành, quyền lực không còn vô giới hạn để thực thi các điều khoản nêu ra trong hiến pháp nữa.
e. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa
Chương 4 của hiến pháp qui định điều khoản này. Chương này qui định vị trí của vấn đề quốc phòng và an ninh nội bộ của quốc gia. Quốc phòng là trách nhiệm của “Lực lượng vũ trang nhân dân” nhưng đồng thời lực lượng vũ trang nhân dân còn có trách nhiệm “bảo vệ chế độ Xã hội Chủ nghĩa và những thành quả cách mạng” (điều 45). Điều này có nghĩa là lực lượng vũ trang này phải có trách nhiệm đàn áp tất cả các phong trào, tổ chức và khuynh hướng chính trị đưa đến dân chủ đa nguyên và nhân quyền đúng theo nghĩa được qui định bởi Liên Hiệp Quốc.
An ninh nội bộ quốc gia là trách nhiệm của “Công an nhân dân cách mạng”. Ngoài ra, công an còn có trách nhiệm bảo vệ “tài sản Xã hội Chủ nghĩa” (điều 47).
Tóm lại quân đội và công an đáng lẽ phải bảo vệ tổ quốc, tài sản của dân chúng, nhân quyền một cách vô vị lợi và phi ý thức hệ như các quốc gia khác trên thế giới, thì lại được cộng sản Việt Nam qui cho trách nhiệm bảo vệ “Xã hội Chủ nghĩa”. Dĩ nhiên nếu cần thiết, các lực lượng trên sẽ đàn áp dân chúng và dẫm nát nhân quyền nhân danh Xã hội Chủ nghĩa.
f. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Chương 5 qui định quyền lợi và trách nhiệm của công dân là một trong những chương phức tạp nhất của bản hiến pháp. Chương này gồm 34 điều khoản. Các điều khoản quan trọng gồm có:
1. Điều 54: Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào quốc hội, hội đồng nhân dân theo qui định của pháp luật.
2. Điều 66: Thanh niên được gia đình, nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập... phát triển... lý tưởng Xã hội Chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ tổ quốc.
3. Điều 76: Công dân phải trung thành với tổ quốc. Phản bội tổ quốc là tội nặng nhất.
4. Điều 79: Công dân có nghĩa vụ... giữ gìn bí mật quốc gia.
5. Điều 82: Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hòa bình hoặc sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú.
Trong tất cả các điều khoản của Chương 5, điều 54 quan trọng hơn cả. Điều này cũng là một điều khoản thông thường có mặt trong hiến pháp của mọi quốc gia dân chủ thực sự. Tuy nhiên, một phần vì tính cách độc tài đảng trị của toàn bộ hiến pháp, và một phần vì thiếu kiến thức về luật hiến pháp, cộng sản Việt Nam đã hiểu thành ngữ “theo qui định của pháp luật” như là: luật pháp muốn qui định như thế nào cũng được.
Chính vì thế, bản hiến pháp 1992 rất thường xuyên xử dụng thành ngữ này với mục tiêu che mắt mọi người bằng một bản hiến pháp “mờ ảo coi có vẻ được” nhưng kỳ thực đằng sau bản hiến pháp có những luật pháp khắc khe tước bỏ mọi nhân quyền và dân quyền. Bằng cớ rõ rệt nhất là “Luật Bầu Cử Đại Biểu Quốc Hội” từ điều 25 đến điều 36 qui định rõ rệt là Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (cơ quan ngoại vi của đảng CSVN) có tiếng nói quyết định trong việc giới thiệu người ra ứng cử, và chỉ có người được giới thiệu mới ra ứng cử được mà thôi.
Chắc chắn trong một quốc gia dân chủ thực sự, với một cơ quan Tư pháp (Tối cao Pháp viện) hoàn toàn độc lập, thì các điều khoản trên của luật bầu cử sẽ bị tuyên bố là vi hiến và vô hiệu lực. Lý do là vì thành ngữ “theo qui định của pháp luật” không cho phép pháp luật vi phạm tinh thần của điều 54 của hiến pháp. Tinh thần của điều 54 của hiến pháp là “mọi công dân đủ 21 tuổi đều có quyền ứng cử vào Quốc hội”. Trong khi đó thì trên thực tế Luật Bầu Cử đã sửa tinh thần của hiến pháp trở thành “mọi công dân đủ 21 tuổi, với sự cho phép của đảng Cộng Sản Việt Nam, qua Mặt Trận Tổ Quốc, đều có quyền ứng cử vào Quốc hội”.
Một luật bầu cử như vậy xung đột với tinh thần của điều khoản 54 của hiến pháp. Bởi vì hiến pháp là luật căn bản (fundamental Law) nên những điều khoản 25 đến 36 của Luật Bầu Cử phải triệt tiêu và vô hiệu lực vì “vi hiến”.
Tuy nhiên, như sẽ phân tích ở Chương 10 của hiến pháp, cơ quan tư pháp tối cao dưới chế độ cộng sản Việt Nam (Tòa án Nhân dân Tối cao) không có đủ sự độc lập mà hoàn toàn bị sự khống chế của đảng. Hơn nữa việc giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh (điều 91) đáng lẽ phải là trách nhiệm của Tư pháp, thì lại được qui là trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (dưới sự kiểm soát chặc chẽ của đảng). Điều này vượt ra ngoài những qui ước về luật pháp căn bản của những chế độ dân chủ tự do. Trong một chế độ dân chủ, thực sự không thể chấp nhận được việc một thực thể pháp lý vừa làm ra qui luật, vừa được quyền thẩm xét những qui luật mình đặt ra có đúng hay không. Lý do là vì sẽ thiếu sự khách quan, thiếu yếu tố nhân quyền, thiếu sự kiểm soát và sẽ đưa đến độc tài. Tuy nhiên theo chế độ “pháp chế Xã hội Chủ nghĩa” thì đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn trơ trẽn theo luật rừng vì quyền lực tuyệt đối phát xuất từ quân đội và công an chứ không phải từ công bằng và lẽ phải.
Điều 66 (nêu trên) là một trong nhiều điều khoản của bản hiến pháp có tính cách ý thức hệ thoái hóa và không thực tế. Hơn nữa giới thanh niên đã hoàn toàn đổ vỡ niềm tin với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Điều 76 và 79 (nêu trên) cũng chỉ là những xảo thuật để chụp mũ những cá nhân, thành phần chống lại sự độc tài của đảng mà không có một thực chất pháp lý nào cả.
Điều 82 (nêu trên) vừa thiếu thực tế, vừa gượng ép vì quá khôi hài. Hằng trịêu người bỏ nước CHXHCN/VN đi tìm tự do chứ có bao nhiêu người lại tìm đến nước CHXHCN/VN để tỵ nạn đâu?
g. Quốc Hội
Chương 6 từ điều 83 cho đến điều 100 nói về quyền lực và trách nhiệm của quốc hội. Điều 83 nói về quốc hội như sau:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN/VN.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh và đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc Hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Cũng vì tính cách quan trọng của Quốc hội, cộng sản Việt Nam xử dụng nhiều mánh khoé nhất để khống chế Quốc hội trong bản hiến pháp này.
Thêm vào đó, như đã trình bày ở phần (f) trên, luật bầu cử đã qui định chỉ có những công dân trên 21 tuổi được sự giới thiệu của đảng (qua ngoại vi đảng là Mặt Trận Tổ Quốc) mới được ứng cử vào Quốc hội mà thôi. Những mánh khoé để khống chế Quốc hội trong hiến pháp gồm có:
1. Điều 85: Nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là 5 năm... trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình.
2. Điều 86: Quốc hội họp mỗi năm họp 2 kỳ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập.
3. Điều 87: Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm soát Nhân dân Tối cao, Mặt trận Tổ quốc VN và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội.
4. Điều 90: Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm có:
- Chủ tịch Quốc hội.
- Các phó chủ tịch Quốc hội.
- Các ủy viên.
Điều 85 (nêu trên) có hậu quả là mặc dù nhiệm kỳ được ấn định 5 năm, trên thực tế, nếu cần thiết, đảng CSVN (qua việc kiểm soát 2/3 đại biểu quốc hội) có thể miễn việc bầu cử một cách hoàn toàn hợp hiến.
Điều 86 phối hợp với điều 90 (nêu trên) sẽ làm cho việc đảng kiểm soát Quốc hội dễ dàng hơn nữa. Lý do là vì Quốc hội mỗi năm chỉ họp 2 kỳ do UBTVQH triệu tập. Bình thường thì tất cả quyền hành lớn lao của QH do UBTVQH hành xử theo điều 91 của hiến pháp. Đảng Cộng Sản Việt Nam không cần phải kiểm soát khoảng 400 đại biểu mà chỉ cần đưa những đảng viên cao cấp của mình vào UBTVQH và kiểm soát số người nhỏ này là quá đủ.
Tuy nhiên, để củng cố sự độc quyền tuyệt đối của đảng đối với một cơ quan “dân cử” (mặc dù “dân cử” theo kiểu XHCN) thì điều 87 nêu trên minh thị cho phép các cơ quan ngoại vi của đảng được quyền đưa ra các dự án luật như là những đại biểu Quốc hội. Điều này hoàn toàn phi lý và không thể chấp nhận được tại một quốc gia dân chủ bình thường, tuy nhiên theo “pháp chế XHCN” thì được hiến định hóa rõ rệt như là luật căn bản.
h. Chủ tịch nước
Chương 7 của hiến pháp từ điều 101 đến điều 108 qui định quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước vốn là nguyên thủ quốc gia. Điều 102 qui định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Điều 103 qui định chi tiết hơn quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ tịch nước.
Tuy nhiên một điều đáng tiếc là vì sự tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng quá cao, nhu cầu phân quyền hợp lý trong hiến pháp phải nhường bước cho nhu cầu phân quyền một cách phi lý và đôi khi dẫm chân lên nhau giữa quyền hạn của Chủ tịch nước (điều 103), Ủy ban Thường vụ Quốc hội dưới sự lãnh đạo của Chu3 tịch Quốc hội (điều 91) và Thủ tướng (điều 112). Đây là một vấn đề vô cùng nan giải và sẽ đưa đến tình trạng xung đột, đổ vỡ trong tương lai trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam. Lý do là vì sự cố gắng thái quá để chia chác quyền lực và giải quyết vấn đề tranh quyền nội bộ, làm cho bản hiến pháp mất hẳn căn bản luận lý khách quan. Mầm móng tranh chấp giữa Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng và Chủ tịch nước sẽ phát xuất từ bản hiến pháp kỳ quặc này:
1. Chẳng hạn khi nói đến Hội đồng Nhân dân Tỉnh thì UBTVQH có quyền ”bãi bỏ các quyết định sai trái của Hội đồng” (điều 91(6)), trong khi đó Thủ tướng có quyền ”đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng Nhân dân Tỉnh... trái với hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị UBTVQH bãi bỏ” (điều 114 (5)). Thủ tướng lại có quyền cách chức và miễn nhiệm Chủ tịch, các Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tỉnh (điều 114 (3)).
Vấn đề đặt ra là nếu không có sự đề nghị của Thủ tướng (mà qua sự đề nghị của Viện giám sát chẳng hạn) thì UBTVQH có quyền bãi bỏ các quyết định của Hội đồng Nhân dân Tỉnh hay không? Nếu có, và Thủ tướng không đồng ý với UBTVQH và Viện giám sát, thì khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ theo lời đề nghị của Viện giám sát, Thủ tướng có bắt buộc phải ra lệnh HĐND Tỉnh ngưng thi hành các quyết định sai trái hay không?
Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong muôn vàn khó khăn mà sự phân chia quyền lực tạm bợ này sẽ gây ra.
2. Khi nói đến vấn đề bổ nhiệm và miễn nhiệm các chức vụ Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ, thì sự chia chác quyền lực càng trở nên giả tạo và phức tạp hơn nữa. Lần này thì cả 3 trung tâm quyền lực dính vào: Thủ tướng thì “trình” lên Quốc Hội hoặc Ủy ban TVQH (nếu Quốc hội không họp) (điều 114(2)). UBTVQH thì “phê chuẩn” và Chủ tịch nước thì “căn cứ vào Nghị quyết của UBTVQH để bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm...” (điều 103 (4)).
Điều nan giải tại Việt Nam là các quốc gia XHCN vốn không có một truyền thống ước lệ về luật hiến pháp (constitutional conventions). Hậu quả là nếu hiến pháp không ghi rõ sự “bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm” các chức vụ Phó Thủ tướng, Bộ trưởng... của Chủ tịch nước là “nhiệm vụ” hay là “quyền hạn” thì sẽ có những tranh chấp lớn. Chúng ta có thể lập luận rằng nếu là “nhiệm vụ” thì Chủ tịch nước chỉ là bù nhìn ở phần vụ này, nếu Thủ tướng “đề nghị” và Quốc hội (hoặc UBTVQH) “phê chuẩn” thì bắt buộc phải “bổ nhiệm”, “miễn nhiệm” hoặc “bãi nhiệm”, tùy theo trường hợp.
Tuy nhiên nếu là “quyền hạn” thì vấn đề trở nên vô cùng phức tạp. Thủ tướng có thể “đề nghị”, Quốc hội có thể “phê chuẩn”, nhưng trên nguyên tắc Chủ tịch nước có quyền hành xử hay không hành xử quyền “bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm” một Phó Thủ tướng, một bộ trưởng hoặc một thành viên nào đó.
Nếu Chủ tịch có quyền đi ngược lại sự “đề nghị” của Thủ tướng và sự “phê chuẩn” của Quốc hội, thì sẽ có một sự khủng hoảng quyền lực lớn lao.
Lãnh vực này của hiến pháp là một con dao hai lưỡi của đảng Cộng Sản Việt Nam. Sự phân chia quyền lực phi lý và tạm bợ này giải quyết những tranh giành nội bộ ngắn hạn. Tuy nhiên, trên đường dài sẽ đào sâu thêm hố chia rẽ giữa các phe nhóm và lãnh tụ đảng.
i. Chính Phủ:
Chương 8 nói đến quyền hạn và trách nhiệm của chính phủ “là cơ quan chấp hành của QH, cơ quan hành chánh cao nhất của nước CHXHCHVN” (điều 109). Ngoài việc qui định những quyền hạn và trách nhiệm bình thường của một cơ quan hành pháp, bản hiến pháp 1992 còn có những điều khoản đặc biệt sau đây:
1. Điều 110: Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội... Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của chính phủ.
2. Điều 111: Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan.
3. Điều 114: Thủ tướng chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương... đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
Điều 110 (nêu trên) là một kỹ thuật tiểu xảo nữa của đảng CSVN để kiểm soát chính phủ. Thật vậy, trong một bản hiến pháp mà mọi quyền lực trên nguyên tắc đều phát xuất từ Quốc hội dân cử (mặc dù thật sự do CSVN giật dây trắng trợn), thì việc một thành viên của chính phủ (cấp Bộ trưởng) không nhất thiết là đại biểu Quốc hội là một sự phản dân chủ lớn lao. Điều 110 cho phép đảng CSVN bổ nhiệm vào chính phủ một Thủ tướng (là một đại biểu Quốc hội) và toàn thể “nội các” (kể cả một hay nhiều Phó Thủ tướng không cần là đại biểu Quốc hội), và như thế nếu đảng CSVN cảm thấy cần cho Thủ tướng “nghỉ bệnh” dài hạn thì điều 110 sẽ cho phép một Phó Thủ tướng lên xử lý cho Thủ tướng mà không cần qui định thời hạn. Kết quả là dân Việt Nam sẽ có một chính phủ không cần phát xuất từ Quốc hội mà chỉ cần phát xuất trực tiếp từ Đảng CSVN.
Thêm vào đó, điều 111 là một xảo thuật để đảng CSVN, qua các tổ chức ngoại vi, có thể được “mời tham dự các phiên họp của chính phủ” nhưng kỳ thực để thanh tra hay coi chừng các thành viên của chính phủ giùm cho đảng.
Điều 114 cho ta thấy mặc dầu trên nguyên tắc, các chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được bầu, tuy nhiên Thủ tướng có quyền khống chế hoàn toàn các cơ cấu địa phương.
j. Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân
Đây là Chương 9 của hiến pháp, qui định sinh hoạt và quyền hạn trách nhiệm của chính quyền địa phương. Đoạn này gồm 8 điều khoản từ điều 118 đến điều 125. Tuy nhiên, bản hiến pháp này hầu như không đặt nặng vấn đề chính quyền địa phương. Chính vì thế, Chương 9 của hiến pháp hoàn toàn không qui định rõ rệt việc bầu cử vị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, mặc dù vị này có trách nhiệm quan trọng là “điều hành hoạt động của Ủy ban Nhân dân” (điều 124). Quả vậy, điều này chỉ được thoáng qua một cách gián tiếp ở chương 8, điều 114 (3), khi nói về quyền hạn và nhiệm vụ của Thủ tướng chính phủ, tức là chính quyền trung ương. Điều 114 (3) chỉ nói lờ mờ là Thủ tướng có quyền “phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Phương thức bầu cử vị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân địa phương (do dân bầu trực tiếp hay là do các đại biểu Hội đồng Nhân dân, hay do các Ủy viên của UBND bầu lên), rất mù mờ.
Điều 118 lại nói: “Việc thành lập Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân ở các đơn vị hành chánh do luật định”.
Điều này có nghĩa là chính phủ cộng sản qui định luật bầu của các cơ quan hành chánh địa phương và có thể hoàn toàn độc tài khống chế bằng các phương thức bầu cử kỳ quặc như luật bầu cử đại biểu Quốc hội vậy.
Bản hiến pháp này cũng hoàn toàn bác bỏ quan niệm “địa phương phân quyền”. Điều 119 qui định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Tuy nhiên, quyền hạn của Thủ tướng ở điều 114 quá lớn (có thể cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng như đình chỉ, bãi bỏ các quyết nghị của Hội đồng nhân dân...), cho nên trên thực tế, các chính quyền địa phương không có thực quyền gì cả và điều 6 của hiến pháp (ghi rõ “nguyên tắc tập trung dân chủ” vốn là một chiêu bài của Lê Nin để thi hành nguyên tắc “tập trung quyền lực độc tài”) sẽ phủ quyết tuyệt đối chương 9.
Lộ liễu hơn nữa là điều 125 cho phép Mặt Trận Tổ Quốc quyền tham gia hội họp các kỳ họp của HĐND để hầu như canh chừng và kiểm soát cơ quan “dân cử” này.
k. Tòa án Nhân dân và Viện Kiểm soát Nhân dân
Chương 10 từ điều 126 đến 140 nói đến 2 cơ quan tư pháp của chế độ.
Như chúng ta đều biết, trong một chế độ dân chủ pháp trị, theo tinh thần thượng tôn luật pháp, thì sự độc lập và tôn kính cơ quan tư pháp là tối quan trọng. Chính vì thế, tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Úc, Anh Quốc... các vị chánh án của những tòa án cấp cao đều phải được Quốc hội bổ nhiệm (theo sự đề nghị của Hành pháp). Nhiệm kỳ của các chánh án này thường thường vô hạn định, hoặc đến mãn đời, hoặc đến tuổi hưu trí, trừ khi can án hình sự hay mất khả năng trí tuệ, mục đích là đem lại cho các chánh án này sự độc lập tuyệt đối trong khi xử án. Thật vậy, nếu nhiệm kỳ các vị chánh án có giới hạn thì các vị này rất dễ dàng bị Hành pháp (Thủ tướng) hoặc Lập pháp (Quốc hội) ảnh hưởng, vì nếu không chịu ảnh hưởng sẽ không được tái bổ nhiệm sau khi mãn nhiệm kỳ.
Điều 126 của hiến pháp 1992 đưa ra mục tiêu sau đây cho cơ quan Tư pháp Cộng sản: Tòa án Nhân dân và Viện Kiểm soát Nhân dân nước CHXHCN/VN, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Điều 126 cho thấy 2 cơ quan Tư pháp của chế độ cộng sản không mang ý nghĩa thượng tôn luật pháp bình thường của một nước dân chủ pháp trị. Trái lại “xã hội chủ nghĩa” sẽ là quan điểm chỉ đạo và qua quan điểm này, đảng CSVN sẽ đứng trên và đứng ngoài sự kềm chế của luật pháp.
Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao (tương đương với Tối cao Pháp viện trong một chế độ dân chủ) sẽ có nhiệm kỳ “theo nhiệm kỳ Quốc hội” tức là 5 năm (điều 128).
Chương 10 của bản hiến pháp không nói đến phương thức bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức vị chánh án quan trọng này. Chỉ nói là đối với các vị thẩm phán thì các điều trên sẽ do luật định.
Tuy nhiên điều 103 (3), Chương 7, khi nói đến nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước, thì chúng ta thấy Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm soát Nhân dân Tối cao.
Các điều này sẽ làm cho vị chánh án và những thẩm phán khác hoàn toàn lệ thuộc vào các cơ quan Hành pháp cho lẽ sống của mình, và sẽ thiếu sự vô tư để bênh vực cho người dân, trong khi đó sẽ tận lực phục vụ cho chế độ.
Tòa án Nhân dân Tối cao cũng sẽ không có khả năng giải quyết những sự xung đột giữa các chức năng do hiến pháp đề ra (chẳng hạn khi Chủ tịch nước xung đột quyền hành với Thủ tướng hoặc Chủ tịch Quốc hội...) và như thế sẽ không thể bảo vệ được “pháp chế xã hội chủ nghĩa” như điều 126 nêu ra. Nếu có một sự xung đột giữa các chức vụ chóp bu đó của hiến pháp thì có hai trường hợp xảy ra:
- Đảng CSVN quá yếu và đi đến sự thanh toán nội bộ, đổ máu và sụp đổ chế độ.
- Đảng CSVN còn mạnh và chính đảng sẽ dàn xếp cho êm thấm.
Như vậy là trên thực tế, Tòa án Nhân dân Tối cao chỉ là một cái bánh vẽ, trang hoàng cho chế độ. Thực chất vẫn là một chế độ đảng trị, độc tài, chuyên chế.
Như đã bàn ở phần (f) nêu trên, Tòa án Nhân dân Tối cao không có quyền phán xét một bộ luật có vi hiến hay không, vì đó là quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (điều 91). Viện Kiểm soát Nhân dân là một cơ chế Tư pháp thứ hai, giữ một vai trò tương tự như một Giám sát viện và một Công tố viện cùng một lượt. Những khuyết điểm của Tòa án Nhân dân cũng áp dụng luôn cho viện này.
Tóm lại tự do, dân chủ, tư hữu và nhân phẩm của người dân sẽ không được bảo vệ đúng đắn vì không có một cơ quan tư pháp tự trị và độc lập.
Tiếp theo Chương 11 và 12 của hiến pháp, qui định những điều khoản liên hệ đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh (2/9/1945), hiệu lực của hiến pháp và việc sửa đổi hiến pháp, tôi nhận thấy không cần phải phân tích về các điều khoản này.
Sau khi phân tách xong bản hiến pháp 1992 của CSVN, chúng ta ý thức sâu sắc một thực tại đau thương của dân tộc. Đó là bản hiến pháp này không phải nhất thiết đơn thuần là kết quả của ý thức hệ Mác-Lê. Chúng ta phải thành thật nhận rằng bản hiến pháp này còn là kết tinh của hai tệ đoan của giới lãnh đạo dân tộc Việt nam trong suốt 200 năm cuối cùng của lịch sử dân tộc. Hai tệ đoan đó là sự vị kỷ và bảo thủ quá đáng của giới lãnh đạo.
Thật vậy, gần 200 năm về trước, khi tiếng đại bác của Tây Phương vang rền trước ngưỡng cửa nước ta thì giới sĩ phu lãnh đạo, vì vị kỷ và quá bảo thủ đã từ chối không chịu canh tân xứ sở.
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, qua đến các thời Đệ I và Đệ II Cộng Hoà tại miền nam Việt Nam, một số lớn giới lãnh đạo chỉ biết phụng sự cho ngoại bang để bảo vệ quyền lợi của mình, tôn thờ văn hóa ngoại lai.
Ngày hôm nay, đảng CSVN cũng thừa hưởng toàn diện hai tệ đoan cố hữu của những giai cấp thống trị trước.
Cứ theo bản hiến pháp 1992 thì đảng CSVN là đảng cộng sản ngoan cố và cực đoan nhất trong một vài đảng cộng sản còn tồn tại. Chính vì vậy, chúng ta cần đấu tranh quyết liệt hơn để khai phóng tiềm năng sáng tạo, trí tuệ tự nhiên của dân tộc Việt Nam thông minh, cần cù, ra khỏi gông cùm của giới lãnh đạo vị kỷ và quá bảo thủ, đã ngự trị tổ quốc VN suốt 200 năm dài của lịch sử.
Vào cuối thế kỷ thứ 20, lại một lần nữa, ánh sáng của khoa học, trí tuệ, tự do, nhân bản và dân chủ đang sáng lòa trước ngưỡng cửa Việt Nam, thì bản hiến pháp 1992 của CSVN lại phản ảnh một lần nữa thái độ quen thuộc của các quan lại triều Nguyễn là bịt mắt, bịt tai để bám víu quyền lợi của mình. Thái độ này làm cho quốc tế khinh khi và mọi người Việt Nam yêu nước phải ngậm ngùi căm phẫn.
Chúng ta có thể kết luận rằng có một điểm tương đồng sâu sắt giữa giới lãnh đạo triều Nguyễn vào những năm bị thực dân đô hộ, giới lãnh đạo đệ nhất và đệ nhị cộng hòa miền Nam và giới lãnh đạo CSVN ngày hôm nay, đó là số người có đủ lương tâm để nhìn nhận sự thật khách quan và có can đảm nói lên sự thật chỉ là một thiểu số ít oi. Cái điểm thiếu lương tâm này trong đa số giới lãnh đạo chính là thảm họa lớn lao nhất của dân tộc.
Luật Sư Đào Tăng Dực
NHẬN XÉT TỔNG QUÁT VỀ HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1992
(Trích cuốn “Việt Nam Dân Chủ Tranh Đấu Luận” của Luật Sư Đào Tăng Dực, Việt Luận Xuất Bản năm 1997,tt172-194, Tại Sydney, Úc Đại Lợi)
Trong khi hàng ngũ quốc gia chưa được củng cố thực sự thì người cộng sản đã có những biện pháp trên nguyên tắc để biện minh cho sự hiện hữu tiếp tục của họ trong lịch sử, và trên thực tế, để củng cố quyền hành của đảng.
Đó là sự sáng tạo và đề cao quan điểm mà họ mệnh danh một cách kiêu sa là “Pháp chế xã hội chủ nghiã”, được thể hiện trọn vẹn trong bản hiến pháp 1992. Sau khi đã đọc bản hiến pháp này rồi thì chúng ta nhận thấy rằng, nếu các đảng phái quốc gia làm cho chúng ta thất vọng vì tính chất thiếu chuyên nghiệp của họ như là những tổ chức chính trị, thì đảng cộng sản Việt Nam lại càng làm cho chúng ta thất vọng lớn lao hơn vì sự thiếu lương tri và lòng tham không đáy của họ.
Thật vậy ngày 19.7.1992, người cộng sản Việt Nam cho bầu quốc hội theo hiến pháp mới. Là những người Việt quan tâm đến vận mệnh của đất nước, khi đọc bản hiến pháp năm 1992, ở mặt tiêu cực chúng ta nhận thấy văn kiện này chỉ nhằm thể hiện quyền lợi cá nhân của một số lãnh tụ chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam qua các phương thức sau đây:
1. Tạo ra một bản hiến pháp với một hệ thống quyền lực phức tạp nhưng dưới sự khống chế tuyệt đối của đảng CSVN, để đảng này có thể phân chia quyền lợi cho nhiều lãnh tụ và phe phái khác nhau trong giới lãnh đạo đảng, hầu tránh sự đổ vỡ nội bộ.
2. Với một tinh thần “sáng tạo” mà không một luật gia nào của thế giới văn minh có thể hiểu nổi, cộng sản Việt Nam đưa ra một quan niệm gọi là “pháp chế xã hội chủ nghĩa” để làm căn bản cho bản hiến pháp (điều 12). Bởi vì chế độ “pháp chế xã hội chủ nghĩa” là một chế độ rất “sáng tạo” nên, theo bản hiến pháp này, đảng Cộng Sản Việt Nam, qua các đoàn thể ngoại vi (nhất là Mặt Trận Tổ Quốc) muốn làm gì thì làm.
Chính vì vậy, chế độ “pháp chế xã hội chủ nghĩa” mang nhiều đặc tính mà các luật gia thế giới văn minh thấy rất gần gũi với “luật rừng”. Có nghĩa là thật sự không có luật lệ gì cả, vì luật lệ chỉ là sự phát huy (manifestation) ý chí của kẻ có sức mạnh.
3. Nới lỏng quyền tư hữu một chút, trong niềm tin tưởng chủ quan rằng người dân Việt Nam không giống những con người khác trên thế giới như Tân Gia Ba, Đài Loan, Đại Hàn, Úc, Thái Lan, Hoa Kỳ, Pháp... Người Việt Nam chỉ cần có một chút cơm ăn là đủ, không cần suy nghĩ nhân phẩm, nhân quyền gì cả. Cộng sản Việt Nam hy vọng rằng như một đám súc vật, dân Việt Nam sau khi được cho ăn đủ sống sẽ chấp nhận làm nô lệ cho cộng sản Việt Nam cả đời.
Tuy nhiên ở bình diện tích cực, bản hiến pháp năm 1992 của cộng sản Việt Nam qui định chính thức vị trí đứng của đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ vị trí đứng “kỳ quặc” nhưng rõ rệt này, chúng ta có thể đả phá cộng sản Việt Nam một cách rốt ráo trên cả hai bình diện: đấu tranh quần chúng và quốc tế vận, để đưa đến sự cáo chung nhanh chóng của bản hiến pháp này, hầu thiết lập một thể chế dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên trên quê hương Việt Nam.
Vì các lãnh tụ đảng cộng sản Việt Nam mang nhiều bản chất của một tập thể lãnh đạo một quốc gia chậm tiến, sống nhiều với quá khứ, thiếu sự hiểu biết về những nguyên tắc căn bản để quản trị quốc gia hiện đại, cá nhân các lãnh tụ muốn chia chác quyền lợi, nên bản hiến pháp 1992 được uốn nắn để thể hiện các đặc tính nêu trên.
a. Lời nói đầu của bản hiến pháp
Trong một kỷ nguyên mà ý thức hệ đã hoàn toàn bị đẩy lui vào bóng tối của lịch sử, để nhường bước cho ánh sáng của trí tuệ và khoa học, thì hiến pháp này mở đầu bằng sự ca ngợi đảng Cộng Sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác Lê.
Sự kiện đảng Cộng Sản Việt Nam ngoan cố giam giữ tinh thần sáng tạo của dân tộc Việt Nam trong cái khung thoái hóa và nhỏ bé của ý thức hệ Mác-xít, mặc dù chính người cộng sản không còn tin tưởng nơi ý thức hệ này nữa, là một sự phản bội tổ quốc lớn lao nhất của lịch sử Việt nam.
b. Chế độ chính trị của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chế độ chính trị được qui định bằng các điều khoản trong chương 1 của hiến pháp 1992. Chương 1 nói lên một cách rõ rệt tính cách độc tài đảng trị của chế độ qua các điều khoản sau đây:
1. Điều 4: Đảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
2. Điều 9: Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (MTTQ) và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt Trận Tổ Quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.
3. Điều 10: Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Qua điều 4, đảng CSVN xác quyết tính cách độc đảng trên nguyên tắc. Qua các điều 9 và 10, đảng CSVN hiến định hóa sự cai trị độc đảng qua 2 cơ sở ngoại vi của đảng là Mặt Trận Tổ quốc và Công Đoàn. Chẳng hạn Mặt Trận Tổ Quốc có quyền “giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử” như theo điều 9 của hiến pháp.
Dưới con mắt của luật pháp tại các nước tự do thì đó là phản dân chủ và không nước nào dám làm, lý do là vì Mặt Trận Tổ Quốc không có tư cách đại diện dân cử và do một đảng chính trị giật dây. Tuy nhiên, dưới chế độ “pháp chế xã hội chủ nghĩa” thì đảng CSVN không có đối lập, nên không ai dám phản đối cả, cứ như thế mà làm ra hiến pháp.
Sự hiến định hóa chế độ độc tài đảng trị của đảng CSVN là thành quả đương nhiên của một hiện tượng thoái hóa mà các nhà xã hội học thường gọi là quá trình thể chế hóa phương tiện (Institutionalisaction des Moyens).
Đảng CSVN là một ví dụ rất dễ hiểu của quá trình này. Chẳng hạn, trên nguyên tắc đảng CSVN được thành lập với mục đích xây dựng độc lập và thiên đường cộng sản cho dân tộc Việt Nam. Như thế đảng chỉ là phương tiện, và một khi nước nhà đã được độc lập và thiên đường cộng sản được xây dựng, thì phương tiện đó phải triệt tiêu.
Tuy nhiên, mặc dù nước nhà tuy độc lập, và cộng sản chủ nghĩa đã đổ vỡ toàn diện trên khắp thế giới và ngay trong lòng của từng đảng viên cộng sản Việt Nam, thì những tay lãnh đạo già nua của đảng vẫn không chịu dẹp đảng. Trái lại, những người này biến đảng này từ một phương tiện trở thành một thể chế (institution), có tính cách trường tồn, không lệ thuộc vào các mục tiêu khởi đầu khi đảng được thành lập nữa.
Trong hoàn cảnh dân tộc Việt Nam lại càng bi đát hơn, vì đảng CSVN lại là “thể chế” nắm quyền duy nhất mà không có đối lập. Với một tình huống như vậy, hậu quả đương nhiên là việc quản trị hành chánh, kinh tế sẽ vô cùng thiếu hiệu năng. Đồng thời sự tham nhũng và bất công xã hội sẽ gia tăng mãi mãi, vì quyền lực được tập trung vào một đảng duy nhất, không có một cơ quan nào độc lập ngoài đảng để kiểm soát, thay thế để chấn chỉnh và đưa quốc gia tiến lên, cạnh tranh trong một thế giới mà sự làm việc hiệu năng là yếu tố tương tranh giữa các dân tộc.
Tóm lại từ một đảng phái là công cụ của dân tộc, quá trình thể chế hóa phương tiện đã biến cả dân tốc Việt Nam trở thành một công cụ khổng lồ để phục vụ cho quyền lợi và tham vọng cá nhân của một số lãnh tụ chóp bu của đảng. Hơn nữa, toàn bộ bản hiến pháp 1992 và đặc biệt là Chương 1 (chế độ chính trị), là bằng chứng hùng hồn rằng các lãnh tụ cộng sản đã mất đi khả năng ý thức khách quan về thời gian tính của lịch sử. Họ đang sống ở ngưỡng cữa của thế kỷ 21, ở thời điểm mà các quan niệm về tự do dân chủ, nhân quyền, đa nguyên đang nở hoa ngay tại cựu đế quốc xã hội chủ nghĩa Liên Sô, mà họ vẫn mơ mộng độc tài đảng trị của các thập niên 40 và muốn đi ngược trào lưu tiến hóa của nhân loại.
Thêm vào đó, sự bám víu trên nguyên tắc vào các điều 4, 9 và 10 của hiến pháp còn biểu lộ một thực tại bi đát nữa của nhóm lãnh tụ cộng sản này. Đó là họ không còn nhận thức một cách sáng suốt là đảng CSVN không còn khả năng kiểm soát hàng ngũ đảng viên và các cơ cấu ngoại vi một cách tuyệt đối nữa. Kết quả là hiến pháp khắc ghi trên nguyên tắc một thể chế chính trị sắt máu kiểu Stalin, trong khi những điều kiện khách quan cho thấy đảng CSVN không thể nào khống chế xã hội và chính quyền theo kiểu Stalin được nữa, vì cán bộ đã thoái hóa, tham nhũng cùng cực, mất niềm tin và bi quan cho tương lai của đảng.
c. Chế độ kinh tế
Chương 2, nói về chế độ kinh tế, có nhiều khía cạnh tương đối mới mẻ. Tuy nhiên, sau khi phân tích kỹ lưỡng, chúng ta sẽ thấy sự cải tổ kinh tế nửa vời này sẽ không giải quyết được vấn đề kinh tế dài hạn cho Việt Nam, vì cộng sản Việt Nam còn bị ý thức hệ giáo điều ràng buộc quá nhiều. Hơn nữa, các điều khoản qui định chế độ kinh tế (từ điều 15 đến điều 29) không thể được hiểu như những điều khoản độc lập, mà phải được hiểu như là những thành phần bất khả phân ly với toàn diện bản hiến pháp.
Chính vì thế, tính cách độc tài đảng trị của các điều khoản qui định chế độ chính trị, tính cách thiếu vô tư và độc lập của những điều khoản qui định quyền tư pháp (Toà án Nhân dân và Viện Kiểm soát nhân dân)... sẽ vô hiệu hoá phần lớn những khía cạnh tích cực của các điều khoản qui định chế độ kinh tế, nhất là các điều khoản qui định tư hữu và kinh tế thị trường.
Một cách tóm lược, sau đây là những điều khoản quan trọng của Chương 2:
1. Điều 15: Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
2. Điều 18:...nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, xử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được nhà nước giao theo qui định của pháp luật.
3. Điều 19: Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lãnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
4. Điều 20: Kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.
5. Điều 21: Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được cho hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển.
6. Điều 23: Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, hoặc tổ chức theo thời giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định.
Nêu trên là những điều khoản quan trọng nhất của bản hiến pháp 1992, trên phương tiện cải tổ kinh tế. Đây là phương tiện duy nhất có những tiến bộ thật sự. Tuy nhiên dù ở phương diện này, sự cải tổ còn quá nhiều khuyết điểm, sẽ di hại về sau cho nền kinh tế quốc gia, nhất là khi nền kinh tế đã vượt qua được giai đoạn phát triển căn bản và đang đứng trước ngưỡng cữa của sự cất cánh thật sự.
Trước hết, cộng sản Việt Nam hy vọng rằng khi nới rộng về kinh tế, nhưng siết chặt về chính trị, họ sẽ khai phóng một phần nào khả năng sáng tạo vật chất của người Việt Nam, ổn định và phát triển kinh tế, đồng thời giữ được độc quyền chính trị theo kiểu Singapore, Đài Loan hoặc Nam Hàn và Nhật Bổn.
Tuy nhiên họ đã quên những sự sai biệt căn bản giữa thể chế chính trị tại Việt Nam và tại các nước nêu trên.
- Trước hết trên bình diện thể chế, các nước nêu trên không được dân chủ bằng các nước Tây phương mà thôi, chứ các nước đó không phải có những thể chế độc tài tuyệt đối hoặc độc đảng. Các đảng đối lập thật sự vẫn hiện hữu tại các quốc gia Á châu nói trên. Mọi người dân đều thật sự được ứng cử vào các chức vụ chính quyền, chứ không phải bắt buộc phải được Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu mới được ra ứng cử như theo luật bầu cử quốc hội cộng sản Việt Nam.
Chính vì thế, tinh thần tự do sáng tạo của các dân tộc trên ở mức độ cao hơn tại Việt Nam.
- Thứ đến là các quốc gia Á châu nói trên đều đặt nền kinh tế của họ trên “một quan điểm tuyệt đối và triệt để về tư hữu”, không hề bị một chút hoen ố gì về ý thức hệ Mác-Lê. Chỉ có như thế, họ mới khai phóng được toàn diện khả năng sáng tạo vật chất của toàn dân, theo kịp cá nước Tây phương, trong một thế giới mà sự cạnh tranh về kinh tế vô cùng gắt gao.
Trong khi đó thì toàn thể hiến pháp 1992 và ngay cả chương 2 nói về chế độ kinh tế, đều bày tỏ rõ rệt ý thức hệ Mác-Lê lỗi thời. Chúng ta có thể ví dụ nước Việt Nam theo hiến pháp cộng sản này, như một người đã ốm yếu bệnh hoạn rồi, mà còn phải gánh thêm một sức nặng ngàn cân (ý thức hệ Mác-Lê) trong một cuộc chạy đua kinh tế với các lực sĩ Singapore, Đài Loan, Nam Hàn... đã khỏe rồi mà không phải khuân vác gì thêm cả.
Thật vậy, chỉ trong chương 2 thôi, chúng ta thấy rõ ý thức hệ Mác-Lê qua các quan điểm: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.... theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa” (điều 15).
Mặc dầu nền kinh tế gồm có 3 thành phần rõ rệt: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và kinh tế cá thể, bản hiến pháp hầu như qui định một cách rõ rệt thứ tự ưu tiên của 3 thành phần trên:
(i) Kinh tế quốc doanh là ưu tiên số một (điều 19).
(ii) Thứ đến là kinh tế tập thể như hợp tác xã (điều 20).
(iii) Sau chót là kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân (điều 21).
Thứ tự ưu tiên trên cho chúng ta thấy quan niệm về tư hữu trong hiến pháp là một quan niệm có thứ tự ưu tiên chót. Không thể so sánh với quan điểm tích cực và tuyệt đối về tư hữu của Singapore, Đài Loan, Nam Hàn và Nhật Bổn được.
- Ngoài ra, một hiểm họa lớn cho nền kinh tế quốc gia, là bản hiến pháp này sẽ tạo ra một hiện tượng “tê liệt kinh niên của nền kinh tế như các quốc gia Châu Mỹ La Tinh”, hoặc Ấn độ. Lý do là vì nền kinh tế quốc doanh, đã và đang là một nền kinh tế thiếu hiệu năng, tham nhũng, nay được chính thức hiến định hóa để trở thành căn bản của kinh tế quốc gia, sẽ làm cho quốc gia vỡ nợ nhanh chóng hơn. Thêm vào đó, kinh tế tập thể (một hình thức hợp tác xã) không phải là một hình thức tổ chức kinh doanh có hiệu năng cao nhất. Thật vậy, trong môi trường cạnh tranh ráo riết về kinh tế thế giới hiện nay, các hợp tác xã chỉ là những tàn tích của một quan niệm tổ chức kinh tế lỗi thời.
Hiến định hóa vị trí ưu tiên của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể (hợp tác xã) so với kinh tế cá thể và tư bản tư nhân, trong thời điểm này, là một hành động cố chấp, vô trách nhiệm và sẽ di hại nặng nề cho nền kinh tế quốc gia. Trên phương diện luật hiến pháp (constitutional law) thì ngay cả khi chính phủ muốn tư hữu hóa những cơ sở kinh tế quốc doanh lỗ lã, thiếu hiệu năng, cũng chưa chắc được vì theo tinh thần của hiến pháp, sẽ là một hành động vi hiến.
Chính vì những khuyết điểm trên, Chương 2 của bản hiến pháp này sẽ đưa nước Việt Nam vào hàng ngũ của các quốc gia bệnh hoạn trầm kha về kinh tế như các quốc gia Châu Mỹ La Tinh, trong suốt nhiều thập niên của thế kỷ 21.
- Hơn nữa, điều 23 (dẫn thượng), trong một chế độ độc đảng, không thể bảo đảm quyền tư hữu được. Lý do là vì đảng Cộng Sản Việt Nam là trung tâm quyền lực bao trùm cả 3 ngành: Hành pháp (gồm quân đội và công an), Lập pháp (các dân biểu bù nhìn) và Tư pháp (tòa án thật sự chỉ theo lệnh đảng). Dù cho Hành pháp có trắng trợn vi hiến và tước đoạt quyền tư hữu của một cá nhân, thì không có một tòa án nào dám bênh vực cho cá nhân ấy.
Các dân biểu bù nhìn sẽ không ngần ngại tuân lệnh đảng, đưa ra những luật lệ ngang nhiên vi hiến, tước quyền tư hữu. Lúc đó cũng sẽ không có một tòa án nào lên tiếng được, vì ý kiến của đảng sẽ là tuyệt đối và không có đối lập.
Quan điểm “tư hữu” trong hiến pháp như vậy chỉ là một quan điểm nửa vời mà cộng sản Việt Nam buộc lòng phải xử dụng qua loa để mong sống còn, chứ không phải một sự cải tổ kinh tế thật sự để đưa quốc gia vào đà phát triển chung của thế giới.
Trên bình diện nhu cầu kinh tế, quốc gia Việt Nam, vì đã qua hơn 40 năm cộng sản tại miền Bắc, hơn 20 năm cộng sản tại miền Nam, không còn trì hoãn được. Yếu tố thời gian vô cùng cấp bách. Một quan điểm tích cực và toàn diện về tư hữu như các nước Singapore, Đài Loan cũng chưa chắc đã giải quyết được phương trình kinh tế Việt Nam, huống hồ là một quan điểm tư hữu què quặc, nặng mùi ý thức hệ và tham quyền cố vị của những người cộng sản Việt Nam. Những mức độ phát triển kinh tế tương đối khả dĩ hiện nay (GDP: 9.5% cho 1996, 9.5% cho 1995 và 8.8% cho 1994 theo tạp chí The Vietnam Business Journal,op. cit. tr.16) một phần phản ảnh sự bộc phát không kềm hãm được của một nền kinh tế từ lâu bị một bàn tay sắt khống chế, và một phần phản ảnh mức độ kinh tế thấp một cách cưỡng bách giả tạo của một quốc gia quá nghèo. Một khi nền kinh tế phát triển đến một mức độ cao hơn và đứng trước ngưỡng cữa của thế giới những quốc gia tự do về kinh tế thật sự, thì nội dung trên của bản hiến pháp sẽ biến thành một trở lực lớn lao cho dân tộc.
Chúng ta phải đau buồn mà kết luận rằng trong cuộc thử thách lớn lao này, người cộng sản Việt Nam cũng như giới sĩ phu triều Nguyễn, chứng tỏ rõ ràng với dân tộc và lịch sử rằng, họ đã đặt quyền lợi của phe nhóm và cá nhân trên quyền lợi của dân tộc Việt Nam.
- Sau cùng, bản hiến pháp 1992 một lần nữa hiến định hoá sự độc đảng. Với sự độc đảng này, tệ nạn tham nhũng vốn đã là một căn bệnh kinh niên không thuốc chữa (vì không có đối lập) sẽ trở nên tệ hại hơn đưa đến sự đổ vỡ xã hội và có thể kéo theo luôn sự cáo chung của chính đảng Cộng Sản Việt Nam. Có thể nói, bằng cách hiến định hóa sự độc đảng, cộng sản Việt Nam đã gián tiếp hiến định hóa sự tham nhũng theo câu châm ngôn phổ thông là “quyền lực tuyệt đối sẽ làm tham nhũng tuyệt đối” (Absolute power corrupts absolutely).
d. Chế độ văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ
Chương 3 của bản hiếp pháp qui định chế độ này. Điều đáng tiếc là chế độ văn hóa giáo dục có quá nhiều yếu tố ý thức hệ lỗi thời, trong một kỷ nguyên mà khoa học, nhân bản, nhân quyền đã chói sáng khắp nơi trên thế giới.
Thật vậy, điều 30 nói đến “tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản động”.
Điều 31: Yêu chế độ Xã hội Chủ nghĩa
Điều 34: Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử cách mạng.
Điều 36: Các đoàn thể nhân dân, trước hết là Đoàn Thanh Niên Hồ Chí Minh... có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.
Thay vì, tôn trọng nhân phẩm và sự thông minh của người Việt Nam, bằng cách cho giảng dạy các văn kiện của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền và dân quyền theo mô thức các nước Đông Âu, thì cộng sản Việt Nam muốn khuynh đảo tư tưởng của giới trẻ Việt Nam bằng ý thức hệ Mác-Lê.
Tuy nhiên, đây chỉ là một hành động tuyệt vọng của một tập thể không còn ý thức được thực trạng xã hội và giới hạn quyền lực của mình. Thực trạng xã hội là không còn ai tin tưởng đảng và ý thức hệ Mác-Lê nữa.
Có nêu ra trong hiến pháp cũng chỉ là hình thức suông. Giới hạn quyền lực của đảng là sự tham nhũng và thối nát đã quá hoành hành, quyền lực không còn vô giới hạn để thực thi các điều khoản nêu ra trong hiến pháp nữa.
e. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa
Chương 4 của hiến pháp qui định điều khoản này. Chương này qui định vị trí của vấn đề quốc phòng và an ninh nội bộ của quốc gia. Quốc phòng là trách nhiệm của “Lực lượng vũ trang nhân dân” nhưng đồng thời lực lượng vũ trang nhân dân còn có trách nhiệm “bảo vệ chế độ Xã hội Chủ nghĩa và những thành quả cách mạng” (điều 45). Điều này có nghĩa là lực lượng vũ trang này phải có trách nhiệm đàn áp tất cả các phong trào, tổ chức và khuynh hướng chính trị đưa đến dân chủ đa nguyên và nhân quyền đúng theo nghĩa được qui định bởi Liên Hiệp Quốc.
An ninh nội bộ quốc gia là trách nhiệm của “Công an nhân dân cách mạng”. Ngoài ra, công an còn có trách nhiệm bảo vệ “tài sản Xã hội Chủ nghĩa” (điều 47).
Tóm lại quân đội và công an đáng lẽ phải bảo vệ tổ quốc, tài sản của dân chúng, nhân quyền một cách vô vị lợi và phi ý thức hệ như các quốc gia khác trên thế giới, thì lại được cộng sản Việt Nam qui cho trách nhiệm bảo vệ “Xã hội Chủ nghĩa”. Dĩ nhiên nếu cần thiết, các lực lượng trên sẽ đàn áp dân chúng và dẫm nát nhân quyền nhân danh Xã hội Chủ nghĩa.
f. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
Chương 5 qui định quyền lợi và trách nhiệm của công dân là một trong những chương phức tạp nhất của bản hiến pháp. Chương này gồm 34 điều khoản. Các điều khoản quan trọng gồm có:
1. Điều 54: Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào quốc hội, hội đồng nhân dân theo qui định của pháp luật.
2. Điều 66: Thanh niên được gia đình, nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập... phát triển... lý tưởng Xã hội Chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ tổ quốc.
3. Điều 76: Công dân phải trung thành với tổ quốc. Phản bội tổ quốc là tội nặng nhất.
4. Điều 79: Công dân có nghĩa vụ... giữ gìn bí mật quốc gia.
5. Điều 82: Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hòa bình hoặc sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú.
Trong tất cả các điều khoản của Chương 5, điều 54 quan trọng hơn cả. Điều này cũng là một điều khoản thông thường có mặt trong hiến pháp của mọi quốc gia dân chủ thực sự. Tuy nhiên, một phần vì tính cách độc tài đảng trị của toàn bộ hiến pháp, và một phần vì thiếu kiến thức về luật hiến pháp, cộng sản Việt Nam đã hiểu thành ngữ “theo qui định của pháp luật” như là: luật pháp muốn qui định như thế nào cũng được.
Chính vì thế, bản hiến pháp 1992 rất thường xuyên xử dụng thành ngữ này với mục tiêu che mắt mọi người bằng một bản hiến pháp “mờ ảo coi có vẻ được” nhưng kỳ thực đằng sau bản hiến pháp có những luật pháp khắc khe tước bỏ mọi nhân quyền và dân quyền. Bằng cớ rõ rệt nhất là “Luật Bầu Cử Đại Biểu Quốc Hội” từ điều 25 đến điều 36 qui định rõ rệt là Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (cơ quan ngoại vi của đảng CSVN) có tiếng nói quyết định trong việc giới thiệu người ra ứng cử, và chỉ có người được giới thiệu mới ra ứng cử được mà thôi.
Chắc chắn trong một quốc gia dân chủ thực sự, với một cơ quan Tư pháp (Tối cao Pháp viện) hoàn toàn độc lập, thì các điều khoản trên của luật bầu cử sẽ bị tuyên bố là vi hiến và vô hiệu lực. Lý do là vì thành ngữ “theo qui định của pháp luật” không cho phép pháp luật vi phạm tinh thần của điều 54 của hiến pháp. Tinh thần của điều 54 của hiến pháp là “mọi công dân đủ 21 tuổi đều có quyền ứng cử vào Quốc hội”. Trong khi đó thì trên thực tế Luật Bầu Cử đã sửa tinh thần của hiến pháp trở thành “mọi công dân đủ 21 tuổi, với sự cho phép của đảng Cộng Sản Việt Nam, qua Mặt Trận Tổ Quốc, đều có quyền ứng cử vào Quốc hội”.
Một luật bầu cử như vậy xung đột với tinh thần của điều khoản 54 của hiến pháp. Bởi vì hiến pháp là luật căn bản (fundamental Law) nên những điều khoản 25 đến 36 của Luật Bầu Cử phải triệt tiêu và vô hiệu lực vì “vi hiến”.
Tuy nhiên, như sẽ phân tích ở Chương 10 của hiến pháp, cơ quan tư pháp tối cao dưới chế độ cộng sản Việt Nam (Tòa án Nhân dân Tối cao) không có đủ sự độc lập mà hoàn toàn bị sự khống chế của đảng. Hơn nữa việc giải thích hiến pháp, luật, pháp lệnh (điều 91) đáng lẽ phải là trách nhiệm của Tư pháp, thì lại được qui là trách nhiệm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (dưới sự kiểm soát chặc chẽ của đảng). Điều này vượt ra ngoài những qui ước về luật pháp căn bản của những chế độ dân chủ tự do. Trong một chế độ dân chủ, thực sự không thể chấp nhận được việc một thực thể pháp lý vừa làm ra qui luật, vừa được quyền thẩm xét những qui luật mình đặt ra có đúng hay không. Lý do là vì sẽ thiếu sự khách quan, thiếu yếu tố nhân quyền, thiếu sự kiểm soát và sẽ đưa đến độc tài. Tuy nhiên theo chế độ “pháp chế Xã hội Chủ nghĩa” thì đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn trơ trẽn theo luật rừng vì quyền lực tuyệt đối phát xuất từ quân đội và công an chứ không phải từ công bằng và lẽ phải.
Điều 66 (nêu trên) là một trong nhiều điều khoản của bản hiến pháp có tính cách ý thức hệ thoái hóa và không thực tế. Hơn nữa giới thanh niên đã hoàn toàn đổ vỡ niềm tin với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Điều 76 và 79 (nêu trên) cũng chỉ là những xảo thuật để chụp mũ những cá nhân, thành phần chống lại sự độc tài của đảng mà không có một thực chất pháp lý nào cả.
Điều 82 (nêu trên) vừa thiếu thực tế, vừa gượng ép vì quá khôi hài. Hằng trịêu người bỏ nước CHXHCN/VN đi tìm tự do chứ có bao nhiêu người lại tìm đến nước CHXHCN/VN để tỵ nạn đâu?
g. Quốc Hội
Chương 6 từ điều 83 cho đến điều 100 nói về quyền lực và trách nhiệm của quốc hội. Điều 83 nói về quốc hội như sau:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN/VN.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh và đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc Hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước.
Cũng vì tính cách quan trọng của Quốc hội, cộng sản Việt Nam xử dụng nhiều mánh khoé nhất để khống chế Quốc hội trong bản hiến pháp này.
Thêm vào đó, như đã trình bày ở phần (f) trên, luật bầu cử đã qui định chỉ có những công dân trên 21 tuổi được sự giới thiệu của đảng (qua ngoại vi đảng là Mặt Trận Tổ Quốc) mới được ứng cử vào Quốc hội mà thôi. Những mánh khoé để khống chế Quốc hội trong hiến pháp gồm có:
1. Điều 85: Nhiệm kỳ của mỗi khóa Quốc hội là 5 năm... trong trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của mình.
2. Điều 86: Quốc hội họp mỗi năm họp 2 kỳ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập.
3. Điều 87: Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm soát Nhân dân Tối cao, Mặt trận Tổ quốc VN và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc hội.
4. Điều 90: Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội gồm có:
- Chủ tịch Quốc hội.
- Các phó chủ tịch Quốc hội.
- Các ủy viên.
Điều 85 (nêu trên) có hậu quả là mặc dù nhiệm kỳ được ấn định 5 năm, trên thực tế, nếu cần thiết, đảng CSVN (qua việc kiểm soát 2/3 đại biểu quốc hội) có thể miễn việc bầu cử một cách hoàn toàn hợp hiến.
Điều 86 phối hợp với điều 90 (nêu trên) sẽ làm cho việc đảng kiểm soát Quốc hội dễ dàng hơn nữa. Lý do là vì Quốc hội mỗi năm chỉ họp 2 kỳ do UBTVQH triệu tập. Bình thường thì tất cả quyền hành lớn lao của QH do UBTVQH hành xử theo điều 91 của hiến pháp. Đảng Cộng Sản Việt Nam không cần phải kiểm soát khoảng 400 đại biểu mà chỉ cần đưa những đảng viên cao cấp của mình vào UBTVQH và kiểm soát số người nhỏ này là quá đủ.
Tuy nhiên, để củng cố sự độc quyền tuyệt đối của đảng đối với một cơ quan “dân cử” (mặc dù “dân cử” theo kiểu XHCN) thì điều 87 nêu trên minh thị cho phép các cơ quan ngoại vi của đảng được quyền đưa ra các dự án luật như là những đại biểu Quốc hội. Điều này hoàn toàn phi lý và không thể chấp nhận được tại một quốc gia dân chủ bình thường, tuy nhiên theo “pháp chế XHCN” thì được hiến định hóa rõ rệt như là luật căn bản.
h. Chủ tịch nước
Chương 7 của hiến pháp từ điều 101 đến điều 108 qui định quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước vốn là nguyên thủ quốc gia. Điều 102 qui định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Điều 103 qui định chi tiết hơn quyền hạn và nhiệm vụ của Chủ tịch nước.
Tuy nhiên một điều đáng tiếc là vì sự tranh giành quyền lực trong nội bộ đảng quá cao, nhu cầu phân quyền hợp lý trong hiến pháp phải nhường bước cho nhu cầu phân quyền một cách phi lý và đôi khi dẫm chân lên nhau giữa quyền hạn của Chủ tịch nước (điều 103), Ủy ban Thường vụ Quốc hội dưới sự lãnh đạo của Chu3 tịch Quốc hội (điều 91) và Thủ tướng (điều 112). Đây là một vấn đề vô cùng nan giải và sẽ đưa đến tình trạng xung đột, đổ vỡ trong tương lai trong nội bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam. Lý do là vì sự cố gắng thái quá để chia chác quyền lực và giải quyết vấn đề tranh quyền nội bộ, làm cho bản hiến pháp mất hẳn căn bản luận lý khách quan. Mầm móng tranh chấp giữa Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng và Chủ tịch nước sẽ phát xuất từ bản hiến pháp kỳ quặc này:
1. Chẳng hạn khi nói đến Hội đồng Nhân dân Tỉnh thì UBTVQH có quyền ”bãi bỏ các quyết định sai trái của Hội đồng” (điều 91(6)), trong khi đó Thủ tướng có quyền ”đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng Nhân dân Tỉnh... trái với hiến pháp, luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị UBTVQH bãi bỏ” (điều 114 (5)). Thủ tướng lại có quyền cách chức và miễn nhiệm Chủ tịch, các Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Tỉnh (điều 114 (3)).
Vấn đề đặt ra là nếu không có sự đề nghị của Thủ tướng (mà qua sự đề nghị của Viện giám sát chẳng hạn) thì UBTVQH có quyền bãi bỏ các quyết định của Hội đồng Nhân dân Tỉnh hay không? Nếu có, và Thủ tướng không đồng ý với UBTVQH và Viện giám sát, thì khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ theo lời đề nghị của Viện giám sát, Thủ tướng có bắt buộc phải ra lệnh HĐND Tỉnh ngưng thi hành các quyết định sai trái hay không?
Đây chỉ là một ví dụ nhỏ trong muôn vàn khó khăn mà sự phân chia quyền lực tạm bợ này sẽ gây ra.
2. Khi nói đến vấn đề bổ nhiệm và miễn nhiệm các chức vụ Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ, thì sự chia chác quyền lực càng trở nên giả tạo và phức tạp hơn nữa. Lần này thì cả 3 trung tâm quyền lực dính vào: Thủ tướng thì “trình” lên Quốc Hội hoặc Ủy ban TVQH (nếu Quốc hội không họp) (điều 114(2)). UBTVQH thì “phê chuẩn” và Chủ tịch nước thì “căn cứ vào Nghị quyết của UBTVQH để bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm...” (điều 103 (4)).
Điều nan giải tại Việt Nam là các quốc gia XHCN vốn không có một truyền thống ước lệ về luật hiến pháp (constitutional conventions). Hậu quả là nếu hiến pháp không ghi rõ sự “bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm” các chức vụ Phó Thủ tướng, Bộ trưởng... của Chủ tịch nước là “nhiệm vụ” hay là “quyền hạn” thì sẽ có những tranh chấp lớn. Chúng ta có thể lập luận rằng nếu là “nhiệm vụ” thì Chủ tịch nước chỉ là bù nhìn ở phần vụ này, nếu Thủ tướng “đề nghị” và Quốc hội (hoặc UBTVQH) “phê chuẩn” thì bắt buộc phải “bổ nhiệm”, “miễn nhiệm” hoặc “bãi nhiệm”, tùy theo trường hợp.
Tuy nhiên nếu là “quyền hạn” thì vấn đề trở nên vô cùng phức tạp. Thủ tướng có thể “đề nghị”, Quốc hội có thể “phê chuẩn”, nhưng trên nguyên tắc Chủ tịch nước có quyền hành xử hay không hành xử quyền “bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm” một Phó Thủ tướng, một bộ trưởng hoặc một thành viên nào đó.
Nếu Chủ tịch có quyền đi ngược lại sự “đề nghị” của Thủ tướng và sự “phê chuẩn” của Quốc hội, thì sẽ có một sự khủng hoảng quyền lực lớn lao.
Lãnh vực này của hiến pháp là một con dao hai lưỡi của đảng Cộng Sản Việt Nam. Sự phân chia quyền lực phi lý và tạm bợ này giải quyết những tranh giành nội bộ ngắn hạn. Tuy nhiên, trên đường dài sẽ đào sâu thêm hố chia rẽ giữa các phe nhóm và lãnh tụ đảng.
i. Chính Phủ:
Chương 8 nói đến quyền hạn và trách nhiệm của chính phủ “là cơ quan chấp hành của QH, cơ quan hành chánh cao nhất của nước CHXHCHVN” (điều 109). Ngoài việc qui định những quyền hạn và trách nhiệm bình thường của một cơ quan hành pháp, bản hiến pháp 1992 còn có những điều khoản đặc biệt sau đây:
1. Điều 110: Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Ngoài Thủ tướng, các thành viên khác của chính phủ không nhất thiết là đại biểu Quốc hội... Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng. Khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của chính phủ.
2. Điều 111: Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời tham dự các phiên họp của chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan.
3. Điều 114: Thủ tướng chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương... đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
Điều 110 (nêu trên) là một kỹ thuật tiểu xảo nữa của đảng CSVN để kiểm soát chính phủ. Thật vậy, trong một bản hiến pháp mà mọi quyền lực trên nguyên tắc đều phát xuất từ Quốc hội dân cử (mặc dù thật sự do CSVN giật dây trắng trợn), thì việc một thành viên của chính phủ (cấp Bộ trưởng) không nhất thiết là đại biểu Quốc hội là một sự phản dân chủ lớn lao. Điều 110 cho phép đảng CSVN bổ nhiệm vào chính phủ một Thủ tướng (là một đại biểu Quốc hội) và toàn thể “nội các” (kể cả một hay nhiều Phó Thủ tướng không cần là đại biểu Quốc hội), và như thế nếu đảng CSVN cảm thấy cần cho Thủ tướng “nghỉ bệnh” dài hạn thì điều 110 sẽ cho phép một Phó Thủ tướng lên xử lý cho Thủ tướng mà không cần qui định thời hạn. Kết quả là dân Việt Nam sẽ có một chính phủ không cần phát xuất từ Quốc hội mà chỉ cần phát xuất trực tiếp từ Đảng CSVN.
Thêm vào đó, điều 111 là một xảo thuật để đảng CSVN, qua các tổ chức ngoại vi, có thể được “mời tham dự các phiên họp của chính phủ” nhưng kỳ thực để thanh tra hay coi chừng các thành viên của chính phủ giùm cho đảng.
Điều 114 cho ta thấy mặc dầu trên nguyên tắc, các chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được bầu, tuy nhiên Thủ tướng có quyền khống chế hoàn toàn các cơ cấu địa phương.
j. Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân
Đây là Chương 9 của hiến pháp, qui định sinh hoạt và quyền hạn trách nhiệm của chính quyền địa phương. Đoạn này gồm 8 điều khoản từ điều 118 đến điều 125. Tuy nhiên, bản hiến pháp này hầu như không đặt nặng vấn đề chính quyền địa phương. Chính vì thế, Chương 9 của hiến pháp hoàn toàn không qui định rõ rệt việc bầu cử vị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, mặc dù vị này có trách nhiệm quan trọng là “điều hành hoạt động của Ủy ban Nhân dân” (điều 124). Quả vậy, điều này chỉ được thoáng qua một cách gián tiếp ở chương 8, điều 114 (3), khi nói về quyền hạn và nhiệm vụ của Thủ tướng chính phủ, tức là chính quyền trung ương. Điều 114 (3) chỉ nói lờ mờ là Thủ tướng có quyền “phê chuẩn việc bầu cử, miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”.
Phương thức bầu cử vị Chủ tịch Ủy ban Nhân dân địa phương (do dân bầu trực tiếp hay là do các đại biểu Hội đồng Nhân dân, hay do các Ủy viên của UBND bầu lên), rất mù mờ.
Điều 118 lại nói: “Việc thành lập Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân ở các đơn vị hành chánh do luật định”.
Điều này có nghĩa là chính phủ cộng sản qui định luật bầu của các cơ quan hành chánh địa phương và có thể hoàn toàn độc tài khống chế bằng các phương thức bầu cử kỳ quặc như luật bầu cử đại biểu Quốc hội vậy.
Bản hiến pháp này cũng hoàn toàn bác bỏ quan niệm “địa phương phân quyền”. Điều 119 qui định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”.
Tuy nhiên, quyền hạn của Thủ tướng ở điều 114 quá lớn (có thể cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng như đình chỉ, bãi bỏ các quyết nghị của Hội đồng nhân dân...), cho nên trên thực tế, các chính quyền địa phương không có thực quyền gì cả và điều 6 của hiến pháp (ghi rõ “nguyên tắc tập trung dân chủ” vốn là một chiêu bài của Lê Nin để thi hành nguyên tắc “tập trung quyền lực độc tài”) sẽ phủ quyết tuyệt đối chương 9.
Lộ liễu hơn nữa là điều 125 cho phép Mặt Trận Tổ Quốc quyền tham gia hội họp các kỳ họp của HĐND để hầu như canh chừng và kiểm soát cơ quan “dân cử” này.
k. Tòa án Nhân dân và Viện Kiểm soát Nhân dân
Chương 10 từ điều 126 đến 140 nói đến 2 cơ quan tư pháp của chế độ.
Như chúng ta đều biết, trong một chế độ dân chủ pháp trị, theo tinh thần thượng tôn luật pháp, thì sự độc lập và tôn kính cơ quan tư pháp là tối quan trọng. Chính vì thế, tại các quốc gia như Hoa Kỳ, Úc, Anh Quốc... các vị chánh án của những tòa án cấp cao đều phải được Quốc hội bổ nhiệm (theo sự đề nghị của Hành pháp). Nhiệm kỳ của các chánh án này thường thường vô hạn định, hoặc đến mãn đời, hoặc đến tuổi hưu trí, trừ khi can án hình sự hay mất khả năng trí tuệ, mục đích là đem lại cho các chánh án này sự độc lập tuyệt đối trong khi xử án. Thật vậy, nếu nhiệm kỳ các vị chánh án có giới hạn thì các vị này rất dễ dàng bị Hành pháp (Thủ tướng) hoặc Lập pháp (Quốc hội) ảnh hưởng, vì nếu không chịu ảnh hưởng sẽ không được tái bổ nhiệm sau khi mãn nhiệm kỳ.
Điều 126 của hiến pháp 1992 đưa ra mục tiêu sau đây cho cơ quan Tư pháp Cộng sản: Tòa án Nhân dân và Viện Kiểm soát Nhân dân nước CHXHCN/VN, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Điều 126 cho thấy 2 cơ quan Tư pháp của chế độ cộng sản không mang ý nghĩa thượng tôn luật pháp bình thường của một nước dân chủ pháp trị. Trái lại “xã hội chủ nghĩa” sẽ là quan điểm chỉ đạo và qua quan điểm này, đảng CSVN sẽ đứng trên và đứng ngoài sự kềm chế của luật pháp.
Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao (tương đương với Tối cao Pháp viện trong một chế độ dân chủ) sẽ có nhiệm kỳ “theo nhiệm kỳ Quốc hội” tức là 5 năm (điều 128).
Chương 10 của bản hiến pháp không nói đến phương thức bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức vị chánh án quan trọng này. Chỉ nói là đối với các vị thẩm phán thì các điều trên sẽ do luật định.
Tuy nhiên điều 103 (3), Chương 7, khi nói đến nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ tịch nước, thì chúng ta thấy Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm soát Nhân dân Tối cao.
Các điều này sẽ làm cho vị chánh án và những thẩm phán khác hoàn toàn lệ thuộc vào các cơ quan Hành pháp cho lẽ sống của mình, và sẽ thiếu sự vô tư để bênh vực cho người dân, trong khi đó sẽ tận lực phục vụ cho chế độ.
Tòa án Nhân dân Tối cao cũng sẽ không có khả năng giải quyết những sự xung đột giữa các chức năng do hiến pháp đề ra (chẳng hạn khi Chủ tịch nước xung đột quyền hành với Thủ tướng hoặc Chủ tịch Quốc hội...) và như thế sẽ không thể bảo vệ được “pháp chế xã hội chủ nghĩa” như điều 126 nêu ra. Nếu có một sự xung đột giữa các chức vụ chóp bu đó của hiến pháp thì có hai trường hợp xảy ra:
- Đảng CSVN quá yếu và đi đến sự thanh toán nội bộ, đổ máu và sụp đổ chế độ.
- Đảng CSVN còn mạnh và chính đảng sẽ dàn xếp cho êm thấm.
Như vậy là trên thực tế, Tòa án Nhân dân Tối cao chỉ là một cái bánh vẽ, trang hoàng cho chế độ. Thực chất vẫn là một chế độ đảng trị, độc tài, chuyên chế.
Như đã bàn ở phần (f) nêu trên, Tòa án Nhân dân Tối cao không có quyền phán xét một bộ luật có vi hiến hay không, vì đó là quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (điều 91). Viện Kiểm soát Nhân dân là một cơ chế Tư pháp thứ hai, giữ một vai trò tương tự như một Giám sát viện và một Công tố viện cùng một lượt. Những khuyết điểm của Tòa án Nhân dân cũng áp dụng luôn cho viện này.
Tóm lại tự do, dân chủ, tư hữu và nhân phẩm của người dân sẽ không được bảo vệ đúng đắn vì không có một cơ quan tư pháp tự trị và độc lập.
Tiếp theo Chương 11 và 12 của hiến pháp, qui định những điều khoản liên hệ đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh (2/9/1945), hiệu lực của hiến pháp và việc sửa đổi hiến pháp, tôi nhận thấy không cần phải phân tích về các điều khoản này.
Sau khi phân tách xong bản hiến pháp 1992 của CSVN, chúng ta ý thức sâu sắc một thực tại đau thương của dân tộc. Đó là bản hiến pháp này không phải nhất thiết đơn thuần là kết quả của ý thức hệ Mác-Lê. Chúng ta phải thành thật nhận rằng bản hiến pháp này còn là kết tinh của hai tệ đoan của giới lãnh đạo dân tộc Việt nam trong suốt 200 năm cuối cùng của lịch sử dân tộc. Hai tệ đoan đó là sự vị kỷ và bảo thủ quá đáng của giới lãnh đạo.
Thật vậy, gần 200 năm về trước, khi tiếng đại bác của Tây Phương vang rền trước ngưỡng cửa nước ta thì giới sĩ phu lãnh đạo, vì vị kỷ và quá bảo thủ đã từ chối không chịu canh tân xứ sở.
Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, qua đến các thời Đệ I và Đệ II Cộng Hoà tại miền nam Việt Nam, một số lớn giới lãnh đạo chỉ biết phụng sự cho ngoại bang để bảo vệ quyền lợi của mình, tôn thờ văn hóa ngoại lai.
Ngày hôm nay, đảng CSVN cũng thừa hưởng toàn diện hai tệ đoan cố hữu của những giai cấp thống trị trước.
Cứ theo bản hiến pháp 1992 thì đảng CSVN là đảng cộng sản ngoan cố và cực đoan nhất trong một vài đảng cộng sản còn tồn tại. Chính vì vậy, chúng ta cần đấu tranh quyết liệt hơn để khai phóng tiềm năng sáng tạo, trí tuệ tự nhiên của dân tộc Việt Nam thông minh, cần cù, ra khỏi gông cùm của giới lãnh đạo vị kỷ và quá bảo thủ, đã ngự trị tổ quốc VN suốt 200 năm dài của lịch sử.
Vào cuối thế kỷ thứ 20, lại một lần nữa, ánh sáng của khoa học, trí tuệ, tự do, nhân bản và dân chủ đang sáng lòa trước ngưỡng cửa Việt Nam, thì bản hiến pháp 1992 của CSVN lại phản ảnh một lần nữa thái độ quen thuộc của các quan lại triều Nguyễn là bịt mắt, bịt tai để bám víu quyền lợi của mình. Thái độ này làm cho quốc tế khinh khi và mọi người Việt Nam yêu nước phải ngậm ngùi căm phẫn.
Chúng ta có thể kết luận rằng có một điểm tương đồng sâu sắt giữa giới lãnh đạo triều Nguyễn vào những năm bị thực dân đô hộ, giới lãnh đạo đệ nhất và đệ nhị cộng hòa miền Nam và giới lãnh đạo CSVN ngày hôm nay, đó là số người có đủ lương tâm để nhìn nhận sự thật khách quan và có can đảm nói lên sự thật chỉ là một thiểu số ít oi. Cái điểm thiếu lương tâm này trong đa số giới lãnh đạo chính là thảm họa lớn lao nhất của dân tộc.
Luật Sư Đào Tăng Dực
Gia tri Phap ly va tinh chinh thong cua Hien Phap VN ...
Giá Trị Pháp Lý và Tính Chính Thống Của Hiến Pháp Việt Nam Hiện Nay Từ Cơ Sở Pháp Lý Của Hiến Pháp 1946
Luật Sư Nguyễn Xuân Phước
nxpesq@gmail.com
I. Những Ý Niệm Căn Bản Về Hiến Pháp
Hiến pháp là bộ luật tối cao của một quốc gia định nguyên tắc tổ chức guồng máy công quyền để thực hiện mục đích xây dựng một xã hội trong đó dân làm chủ đất nước nhằm bảo đảm dân quyền và nhân quyền của công dân, và đồng thời bảo đảm tính chất ổn định, chính thống và hợp pháp của nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền nào không thực thi hiến pháp, phản bội các điều khoản của hiến pháp, nhà cầm quyền ấy tự mình chấm dứt giá trị pháp lý và tính chính thống về giá trị quyền lực lãnh đạo quốc dân. 1
Để xác định quyền làm chủ đất nưóc của nhân dân, hiến pháp luôn luôn phải được toàn thể nhân dân chấp thuận và mọi sự thay đổi hiến pháp phải luôn luôn được toàn thể nhân dân quyết định bằng lá phiếu. Hiến pháp gọi đó là quyền phúc quyết. Quyền phúc quyết cộng với các quyền tự do ứng cử và bầu cử, quyền bình đẳng cơ hội về quyền lợi và nghĩa vụ kính tế chính trị văn hoá, và các quyền công dân khác xác định nhân dân là chủ nhân ông của đất nước. Khi nhân dân được phúc quyết hiến pháp hay đưọc tự do ứng cử và bầu cử đó là lúc họ thực sự hành sử quyền làm chủ đất nước của mình.
II. Sự Ra Đời Của Hiến Pháp 1946
Năm 1946, Quốc Hội dân cử đầu tiên đã được bầu lên bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu đầu tiên của đất nước ta. Sau đó quốc hội được bổ xung thêm các dân biểu là những nhân sĩ và các nhà cách mạng chống Pháp không Cộng Sản. Quốc hội đầu tiên nầy tập hợp được nhiều thành phần xã hội và đảng phái chính trị có những xu hưóng khác nhau. Ngoài các nhà cách mạng tả phái mà đại diện là các ông Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, có sự tham dự của các nhà cách mạng tiên khởi thời Phan Bội Châu như cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng với các nhà cách mạng hữu phái như các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Trần Trung Dung vv... [2] [3] [4] [10].
Sau đó, Quốc Hội đã bầu ra một Ủy Ban Dự Thảo Hiến Pháp đã gồm 11 người, thuộc mọi thành phần, là đại biểu của các tổ chức, đảng phái chính trị và các tầng lớp nhân dân khác nhau do ông Hồ Chí Minh chủ trì.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc Hội Việt nam đã thông qua hiến pháp đầu tiên cho một nước Việt Nam độc lập.
Về phần nội dung, Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền căn bản của công dân trong đó có quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa (điều 6), quyền bình đảng trước pháp luật (điều 7), quyền tự do ứng cử và bầu cử (điều 18), nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp (điều 21). Hiến pháp 1946 còn đi xa hơn bằng cách cho phép những người ngoại quốc tranh đấu cho tự do dân chủ mà phải trốn tránh được cư ngụ trên đất Việt nam (điều 16).
Quan trọng nhất là không nó không hề có một điều khoản nào qui định là một đảng phái nào hay một ý thức hệ nào là độc tôn và độc quyền lãnh đạo đất nước như các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà hay Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. [5]
Đứng trên phương diện lịch sử, hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý khai sinh nước Việt Nam độc lập sau hơn 80 năm bị mất chủ quyền về tay thực dân Pháp. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ sau khi quốc hội thông qua hiến pháp nên hiến pháp 1946 không được chính thức công bố và cuộc tổng tuyển cử nghị viện nhân dân không được thi hành. Tuy nhiên, theo tài liệu của đảng Cộng Sản thì chính phủ và ban thường vụ quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động trong nước. [5] . Và hiến pháp đó có giá trị cho đến năm 1960 khi hiến pháp 1959 được ban hành.
Tài liệu Đảng Cộng Sản cũng đánh giá như sau:
Hiến pháp 1946 là một bản hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Nó là bản hiến pháp mẩu mực trên nhiều phương diện. [6]
Mặc dù chính phủ kháng chiến ra đời không theo thủ tục của hiến pháp vì hoàn cảnh chiến tranh, và mặc dù những điều khoản của hiến pháp đã bị nhà nước vi phạm, chúng ta có thể xác định được rằng chính phủ đã công nhận hiến pháp 1946 là khế ước hợp pháp giữa quốc dân Việt và nhà cầm quyền đương thời. Hiến pháp 1946 xác định những giá trị căn bản về văn hoá, chính trị và kinh tế và biến những giá trị trị đó thành những lý tưởng và ước vọng dân tộc mà thế hệ 1945 đã hy sinh xương máu để chiến đấu và bảo vệ. Đồng thời nó xác định nhân dân là chủ nhân ông tuyệt đối của đất nước.
Do đó, hiến pháp 1946 là một hiến pháp tốt, có giá trị pháp lý, và là nền tảng pháp lý ắt có và đủ để xây dựng nước Việt Nam mới, tự do dân chủ và độc lập. Hiến pháp đó là nền tảng pháp lý cho mọi thay đổi pháp lý của các hiến pháp kế thừa.
III. Cái Chết Oan Khiên Của Hiến Pháp 1946 và Tính Chất Bất Hợp Pháp của Các Hiến Pháp Kế Thừa
Xác định tính cách hợp pháp và hợp lý của hiến pháp 1946 để nhấn mạnh một điểm là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (cho đến năm 1980) và nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (từ năm 1980 cho đến nay) đều phải mang tính kế thừa và mang tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946.
Sau năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có thêm tất cả là 3 hiến pháp. Các hiến pháp tuần tự ra đời trong các năm sau đây: 1959 ban hành năm 1960, 1980 và 1992.
Tài liệu đảng Cộng Sản viết về thủ tục ra đời của hiến pháp 1959, là bản hiến pháp kế thừa trực tiếp bản hiến pháp 1946, như sau:
"Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của nhà nước ta đã hoàn thành sứ mệnh của nó, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ sáu, Quốc Hội nước Việt nam Dân Chủ Cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi hiến pháp 1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi".
Tài liệu này viết tiếp:
"Sau khi làm xong bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958 bản dự thảo đã được thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan quân dân, chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này, bản dự thảo đã được chỉnh lý lại vào ngày 1 tháng 4 năm 1959 đem công bố để tòan dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận nầy làm trong 4 tháng liền tại khắp nơi trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học và các tổ chức khác của nhân dân, ở thành thị và nông thôn, việc nghiên cứu và thảo luận dự thảo hiến pháp tiến hành sôi nổi và đã trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi có đủ các tầng lớp nhân dân tham gia".
Tài liệu trên kết luận về phần thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 như sau:
“Ngày 18-12-1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi. Ngày 31-12-1959, quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960 Chủ tịch ký sắc lệnh công bố hiến pháp.” [7]
Khi bàn về hiến pháp 1959, tài liệu của ĐCSVN viết như sau:
“Hiến pháp 1959 là sự kế thừa và phát triển của hiến pháp 1946 trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.”[7]
Những trích dẫn kể trên cho thấy nhà nước tự ý tuyên bố là Hiến Pháp 1946 đã "hoàn thành sứ mệnh" của nó mà không nói rõ ràng thế nào là "sứ mệnh của hiến pháp" và thế nào là "hoàn thành". Trong hiến pháp 1946 không hề có điều khoản nào xác định "sứ mệnh của hiến pháp" và ấn định rằng khi hiến pháp "hoàn thành" sứ mệnh của nó thì giá trị thi hành của hiến pháp phải bị chấm dứt.
Thế thì, lý do khai tử hiến pháp 1946 hòan toàn vô căn cứ. Cái chết của hiến pháp 1946 là một cái chết oan khiên, cái chết ngụy tạo. Hiến pháp 1946 đã bị ĐCSVN xé bỏ một cách tức tưởi vì hiến pháp 1959 không có lý do chánh đáng và hợp pháp để thay thế hiến pháp 1946.
Hơn nữa, vì nhà nước xác nhận hiến pháp 1959 là hiến pháp kế thừa của hiến pháp 1946 và đã cam kết điều hành đất nước theo tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946 nên sự thay đổi hiến pháp cũng phải tuân thủ yêu cầu của hiến pháp 1946.
Điều 70 của Hiến Pháp 1946 liên quan đến vấn đề thay đổi hiến pháp qui định như sau:
“Sửa đổi hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viên bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết."
Thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 theo tài liệu của chính Đảng Cộng Sản dẫn chứng ở trên, đã chứng minh sự ra đời của hiến pháp nầy đã không theo đúng thủ tục tu chính hiến pháp qui định trong điều 70 của hiến pháp 1946.
Việc đem dự thảo hiến pháp ra cho "tòan dân" thảo luận và đóng góp ý kiến "một cách sôi nổi” như tài liệu ĐCSVN cho biết là một thủ tục tốt, nhưng hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Hiến pháp 1946 không đòi hỏi nhân dân phải thảo luận và đóng góp ý kiến một cách … sôi nổi. Hiến pháp 1946 qui định rõ ràng, minh bạch, ngắn gọn và dễ hiểu là những thay đổi hiến pháp phải được nhân dân phúc quyết. Thủ tục phúc quyết này cần được hiểu là phải được thực hiện qua một cuộc trưng cầu dân ý (referendum) tự do để thể hiện sự chấp thuận của toàn dân. [8]
Sau khi tự ý bãi bỏ quyền phủ quyết của nhân dân trong quá trình thay đổi hiến pháp, ĐCSVN đã hợp thức hoá thủ tục bất hợp hiến nầy với hiến pháp 1959. Điều 112 của hiến pháp 1959 quy định thủ tục Sửa Đổi Hiến Pháp như sau:
Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
So sánh điều khoản Sửa Đổi Hiến Pháp của hiến pháp 1946 và hiến pháp 1959, chúng ta thấy rằng với hiến pháp 1959, nhà cầm quyền CSVN đã loại hẳn vai trò phúc quyết của nhân dân. Hơn thế nữa, ĐCSVN như thể sợ nhân dân đứng lên đòi lại quyền phúc quyết nên phải nhấn mạnh thêm là chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Và dường như họ tin rằng nếu họ tự ý thay đổi điều khoản tu chính hiến pháp như thế thì họ có toàn quyền và tùy nghi thay đổi toàn bộ hiến pháp cho thích hợp với nhu cầu chính trị bất chấp giá trị thiêng liêng của khế ước chính trị giữa nhân dân và nhà cầm quyền.
Vì sự thể quyền phúc quyết những thay đổi hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nước của nhân dân,
Vì sự thể điều 70 hiến pháp 1946 qui định thủ tục pháp lý của sự thay đổi hiến pháp,
Vì sự thể lý do sửa đỏi hiến pháp có tính chất ngụy tạo,
Vì sự thể thủ tục sửa đổi hiến pháp để cho ra đời hiến pháp 1959 đã vi phạm nghiêm trọng điều 70 nầy,
Vì sự thể hiến pháp 1959 và các hiến pháp sau đó tước đoạt quyền sửa đồi hiến pháp của nhân dân Việt Nam
Chúng ta có thể khẳng định rằng, hiến pháp 1959 cùng các hiến pháp xuất hiện sau đó hoàn toàn không có dân chủ, bất hợp hiến và bất hợp pháp vì không có tính kế thừa và tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946. Và vì thế, các hiến pháp kế thừa không có năng lực pháp lý để xác định tính chất hợp pháp và chính thống của nhà cầm quyền .
IV. Lối Ra và Lối Về
Nhận định về tính chất dân chủ của thủ tục lập hiến của nước ta hiện nay, luật sư Nguyễn Văn Thảo, cố vấn pháp luật của quốc hội và bộ chính trị ĐCSVN, trình bày trong bài viết "Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp" đăng trong Tạp Chí Cộng Sản số 12 tháng 6-2001, cho rằng thủ tục lập hiến của các hiến pháp xuất hiện sau hiến pháp 1946 không có tính cách dân chủ. Trong bài nầy Luật Sư Thảo đã có những nhận định về thủ tục soạn thảo hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 như sau:
"Thực tiễn nước ta có hai công thức soạn thảo (hiến pháp):
• Ban soạn thảo hiến pháp + trưng cầu dân ý (hiến pháp 1946)
• Ban soạn thảo hiến pháp + hỏi ý kiến nhân dân (hiếnpháp 1959, 1980, 1992)
Trong hai công thức trên, tổ chức trưng cầu dân ý là một thành tựu về phát huy dân chủ trực tiếp, thực chất là để từng công dân tham gia trực tiếp vào việc thông qua hiến pháp.
Công thức thành lập Ủy Ban soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân rồi trình lên Quốc Hội thông qua thì việc lấy ý kiến nhân dân khác hẳn với trưng cầu ý dân. Tập hợp ý kiến của nhân dân để chỉnh lý bản dự thảo Hiến Pháp, công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp." [10]
Một thủ tục soạn thảo hiến pháp mà "công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp" xác định tính chất mất dân chủ của hiến pháp nầy. Đó là trường hợp ra đời của các hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Đồng thời đó là lời xác minh sự vi phạm trầm trọng điều 70 của hiến pháp 1946 về nguyên tắc trưng cầu dân ý những thay đổi hiến pháp.
Với lý luận hiến pháp, luật sư Thảo muốn thay mặt ĐSCVN xác nhận với nhân dân rằng hiến pháp hiện nay, trên cơ sở điều 70 của hiến pháp 1946, không dân chủ, và do đó, không hợp hiến và hoàn toàn không có giá trị pháp lý.
Một chế độ hợp pháp không thể được xây dựng trên một hiến pháp bất hợp pháp. Đây là khủng hoảng hiến pháp lớn nhất trong mọi khủng hoảng hiến pháp liên quan đến giá trị chính thống (legitimacy) của chế độ.
Mặt khác, sự hiện diện của các đảng phái không Cộng Sản trong việc hình thành hiến pháp 1946 cho thấy rằng có một mối tương quan chặt chẽ giữa tinh thần dân chủ đa nguyên và hiến pháp 1946.
Đối với người Cộng Sản, hiến pháp 46 cùng với tuyên ngôn độc lập 1945 là những di sản tinh thần lớn nhất của phong trào Việt Minh. Những văn kiện lịch sử nầy không những là quan điểm chính trị lõi cốt của Hồ Chí Minh, mà còn là lời kết ước nghiêm túc nhất của những người Cộng Sản đối với nhân dân Việt Nam.
Do đó, nếu hiến pháp 1946 thể hiện những lý tưởng và ước vọng của thế hệ 1945 về một tổ quốc độc lập, về một thể chế chính trị dân chủ pháp trị và đa nguyên, là biểu tượng sự đoàn kết của toàn dân trong công cuộc đấu tranh chống Pháp, là đỉnh cao của các phong trào cách mạng từ Phan bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, và phong trào Cộng Sản yêu nước, thì cái chết của nó là sự phản bội toàn bộ lý tưởng cứu nước và dựng nước của thế hệ 1945 và của nhân dân Việt Nam.
Vì lý do trên, mọi thay đổi hiến pháp dựa trên hiến pháp hiện nay hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và tính chính thống lịch sử. Muốn tái lập tính chính thống lịch sử và pháp lý của chế độ hiện nay, muốn xây dựng một chế độ dân chủ đa nguyên, điều thiết yếu là Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam phải trở về với những giá trị của hiến pháp 1946, phải trả lại cho nhân dân quyền làm chủ đất nước, và quyền phúc quyết mọi thay đổi hiến pháp.
V. Kết Luận
Vì hiến pháp là luật pháp tối cao xác định giá trị pháp lý của nhà nước, do đó, với một hiến pháp không có cơ sở pháp lý như hiến pháp hiện nay, nhà nước không có năng lực pháp lý để tồn tại. Và nhà nước không thể tiếp tục tồn tại và lãnh đạo đất nước trong tình trạng không hợp pháp, không hợp hiến và không có tính chất chính thống.
Đối với nhân dân Việt Nam, vấn đề không phải là vấn đề thay đổi chắp vá vài ba chương, hay hai ba điều khoản của hiến pháp hiện nay như ĐCSVN đề nghị, hoặc chỉ bỏ điều 4 hiến pháp như một số nhà đấu tranh dân chủ đề nghị. Những thay đổi hiến pháp chỉ có giá trị khi quyền phúc quyết hiến pháp của nhân dân được tái lập.
Khổng Tử viết: "thượng bất chính, hạ tắc loạn". Trong thời đại dân chủ, một nhà nước không có cơ sở hiến pháp dân chủ hợp pháp và chính thống để chứng minh sự tồn tại của nó là một trường hợp "thượng bất chính" nghiêm trọng nhất của mọi trường hợp "thượng bất chính" và nó chắc chắn sẽ dẫn tới một kịch bản "hạ tắc loạn".
Chúng ta có thể nhận định rằng nổ lực giải quyết khủng hoảng hiến pháp là đầu mối để tháo gở chế độ thượng bất chính hiện nay. Nó sẽ là căn cứ địa hồi sinh dân tộc. Bất kỳ nhân dân một chọn lựa phương cách giải quyết khủng hoảng hiến pháp như thế nào, hoặc quay trở về với hiến pháp 1946 hoặc thực hiện một hiến pháp mới, tất cả đều phải tuân thủ nguyên tắc lập hiến của hiến pháp 1946. Nó sẽ là cơ sở pháp lý ắt có cho sự ra đời của một nước Đại Việt mới của thời đại 2000. Chỉ có giá trị của hiến pháp 1946 mới có thể tiếp nối tính chính thống về lịch sử và pháp lý của nhà cầm quyền, và phục hồi chổ đứng lịch sử của các đảng phái cách mạng yêu nước.
Với một hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nưóc của người dân, nhân dân Việt mới có thể hành xử quyền làm chủ đất nước của mình.
Chỉ có một chính quyền có giá trị chính thống về lịch sử và pháp lý mới có đầy đủ cơ sở vật chất và tinh thần để thực hiện công cuộc phục hưng dân tộc, phục hoạt văn hoá, và bảo toàn lãnh thổ, để tiếp nối sứ mạng cứu quốc tồn chủng của tiền nhân. Nội dung của cơ sở vật chất và tinh thần đó là một chế độ dân chủ pháp trị, đa nguyên đa đảng. Đó là nền tảng của sức mạnh dân tộc để đưa đất nước ra khỏi cơ chế độc đoán trì trệ và ao tù của chuyên chính, để đưa dân tộc Việt vào giai đoạn cất cánh kinh tế toàn dân. Có như thế, nước Đại Việt của thời đại 2000 mới có thể hoà nhập được với cộng đồng các dân tộc văn minh tiến bộ của nhân loại ở thế kỷ 21, và để rửa mối nhục nghèo đói, ngu dốt và lạc hậu xã hội chủ nghĩa của thế hệ 45, một thế hệ rất hào hùng nhưng vô cùng bất hạnh.
LS Nguyễn Xuân Phước
viết lại 4/17/2005
Tính chất bất hợp pháp của hiến pháp hiện nay
8/8/2002
Sách Tham Khảo và ghi chú
[1] Jean Jacque Rousseau, Social Contract, lưu trữ ở http://books.mirror.org/gb.rousseau.html
[2] Nguyễn Xuân Chữ, "Hồi Ký Nguyễn Xuân Chữ". Nguyễn Xuân Phát và Chính Đạo hiệu đính, Văn Hoá, Houston ấn hành 1996. trang 301-310
[3] Chú thích của người viết: Các tài liệu lịch sử về cuộc bầu quốc hội và danh sách quốc hội rất là thiếu sót. Tôi rất mong được các nhà sử học trong nước và ngoài nước góp thêm ý kiến và sử liệu.
[4] Nguyễn Lý Tưởng, Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang 77, Tác giả Xuất Bản Hoa Kỳ 2001
[5] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946,
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html
[6] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946,
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html
[7] Hoàn Cảnh Ra Đời và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1959
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp59.html
[8] Nguyễn Văn Thảo, "Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp", Tạp Chí Cộng Sãn tháng 6-2001 http://www.cpv.org.vn/tccs/122001/10-nguyenvanthao.htm
[9] ibid.
[10] Lê Xuân Khoa, Việt nam 1945-1995, Tiên Rồng Xuất Bản, Hoa Kỳ 2004.
Luật Sư Nguyễn Xuân Phước
nxpesq@gmail.com
I. Những Ý Niệm Căn Bản Về Hiến Pháp
Hiến pháp là bộ luật tối cao của một quốc gia định nguyên tắc tổ chức guồng máy công quyền để thực hiện mục đích xây dựng một xã hội trong đó dân làm chủ đất nước nhằm bảo đảm dân quyền và nhân quyền của công dân, và đồng thời bảo đảm tính chất ổn định, chính thống và hợp pháp của nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền nào không thực thi hiến pháp, phản bội các điều khoản của hiến pháp, nhà cầm quyền ấy tự mình chấm dứt giá trị pháp lý và tính chính thống về giá trị quyền lực lãnh đạo quốc dân. 1
Để xác định quyền làm chủ đất nưóc của nhân dân, hiến pháp luôn luôn phải được toàn thể nhân dân chấp thuận và mọi sự thay đổi hiến pháp phải luôn luôn được toàn thể nhân dân quyết định bằng lá phiếu. Hiến pháp gọi đó là quyền phúc quyết. Quyền phúc quyết cộng với các quyền tự do ứng cử và bầu cử, quyền bình đẳng cơ hội về quyền lợi và nghĩa vụ kính tế chính trị văn hoá, và các quyền công dân khác xác định nhân dân là chủ nhân ông của đất nước. Khi nhân dân được phúc quyết hiến pháp hay đưọc tự do ứng cử và bầu cử đó là lúc họ thực sự hành sử quyền làm chủ đất nước của mình.
II. Sự Ra Đời Của Hiến Pháp 1946
Năm 1946, Quốc Hội dân cử đầu tiên đã được bầu lên bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu đầu tiên của đất nước ta. Sau đó quốc hội được bổ xung thêm các dân biểu là những nhân sĩ và các nhà cách mạng chống Pháp không Cộng Sản. Quốc hội đầu tiên nầy tập hợp được nhiều thành phần xã hội và đảng phái chính trị có những xu hưóng khác nhau. Ngoài các nhà cách mạng tả phái mà đại diện là các ông Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, có sự tham dự của các nhà cách mạng tiên khởi thời Phan Bội Châu như cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng với các nhà cách mạng hữu phái như các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Trần Trung Dung vv... [2] [3] [4] [10].
Sau đó, Quốc Hội đã bầu ra một Ủy Ban Dự Thảo Hiến Pháp đã gồm 11 người, thuộc mọi thành phần, là đại biểu của các tổ chức, đảng phái chính trị và các tầng lớp nhân dân khác nhau do ông Hồ Chí Minh chủ trì.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc Hội Việt nam đã thông qua hiến pháp đầu tiên cho một nước Việt Nam độc lập.
Về phần nội dung, Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền căn bản của công dân trong đó có quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa (điều 6), quyền bình đảng trước pháp luật (điều 7), quyền tự do ứng cử và bầu cử (điều 18), nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp (điều 21). Hiến pháp 1946 còn đi xa hơn bằng cách cho phép những người ngoại quốc tranh đấu cho tự do dân chủ mà phải trốn tránh được cư ngụ trên đất Việt nam (điều 16).
Quan trọng nhất là không nó không hề có một điều khoản nào qui định là một đảng phái nào hay một ý thức hệ nào là độc tôn và độc quyền lãnh đạo đất nước như các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà hay Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. [5]
Đứng trên phương diện lịch sử, hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý khai sinh nước Việt Nam độc lập sau hơn 80 năm bị mất chủ quyền về tay thực dân Pháp. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ sau khi quốc hội thông qua hiến pháp nên hiến pháp 1946 không được chính thức công bố và cuộc tổng tuyển cử nghị viện nhân dân không được thi hành. Tuy nhiên, theo tài liệu của đảng Cộng Sản thì chính phủ và ban thường vụ quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động trong nước. [5] . Và hiến pháp đó có giá trị cho đến năm 1960 khi hiến pháp 1959 được ban hành.
Tài liệu Đảng Cộng Sản cũng đánh giá như sau:
Hiến pháp 1946 là một bản hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Nó là bản hiến pháp mẩu mực trên nhiều phương diện. [6]
Mặc dù chính phủ kháng chiến ra đời không theo thủ tục của hiến pháp vì hoàn cảnh chiến tranh, và mặc dù những điều khoản của hiến pháp đã bị nhà nước vi phạm, chúng ta có thể xác định được rằng chính phủ đã công nhận hiến pháp 1946 là khế ước hợp pháp giữa quốc dân Việt và nhà cầm quyền đương thời. Hiến pháp 1946 xác định những giá trị căn bản về văn hoá, chính trị và kinh tế và biến những giá trị trị đó thành những lý tưởng và ước vọng dân tộc mà thế hệ 1945 đã hy sinh xương máu để chiến đấu và bảo vệ. Đồng thời nó xác định nhân dân là chủ nhân ông tuyệt đối của đất nước.
Do đó, hiến pháp 1946 là một hiến pháp tốt, có giá trị pháp lý, và là nền tảng pháp lý ắt có và đủ để xây dựng nước Việt Nam mới, tự do dân chủ và độc lập. Hiến pháp đó là nền tảng pháp lý cho mọi thay đổi pháp lý của các hiến pháp kế thừa.
III. Cái Chết Oan Khiên Của Hiến Pháp 1946 và Tính Chất Bất Hợp Pháp của Các Hiến Pháp Kế Thừa
Xác định tính cách hợp pháp và hợp lý của hiến pháp 1946 để nhấn mạnh một điểm là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (cho đến năm 1980) và nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (từ năm 1980 cho đến nay) đều phải mang tính kế thừa và mang tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946.
Sau năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có thêm tất cả là 3 hiến pháp. Các hiến pháp tuần tự ra đời trong các năm sau đây: 1959 ban hành năm 1960, 1980 và 1992.
Tài liệu đảng Cộng Sản viết về thủ tục ra đời của hiến pháp 1959, là bản hiến pháp kế thừa trực tiếp bản hiến pháp 1946, như sau:
"Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của nhà nước ta đã hoàn thành sứ mệnh của nó, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ sáu, Quốc Hội nước Việt nam Dân Chủ Cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi hiến pháp 1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi".
Tài liệu này viết tiếp:
"Sau khi làm xong bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958 bản dự thảo đã được thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan quân dân, chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này, bản dự thảo đã được chỉnh lý lại vào ngày 1 tháng 4 năm 1959 đem công bố để tòan dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận nầy làm trong 4 tháng liền tại khắp nơi trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học và các tổ chức khác của nhân dân, ở thành thị và nông thôn, việc nghiên cứu và thảo luận dự thảo hiến pháp tiến hành sôi nổi và đã trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi có đủ các tầng lớp nhân dân tham gia".
Tài liệu trên kết luận về phần thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 như sau:
“Ngày 18-12-1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi. Ngày 31-12-1959, quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960 Chủ tịch ký sắc lệnh công bố hiến pháp.” [7]
Khi bàn về hiến pháp 1959, tài liệu của ĐCSVN viết như sau:
“Hiến pháp 1959 là sự kế thừa và phát triển của hiến pháp 1946 trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.”[7]
Những trích dẫn kể trên cho thấy nhà nước tự ý tuyên bố là Hiến Pháp 1946 đã "hoàn thành sứ mệnh" của nó mà không nói rõ ràng thế nào là "sứ mệnh của hiến pháp" và thế nào là "hoàn thành". Trong hiến pháp 1946 không hề có điều khoản nào xác định "sứ mệnh của hiến pháp" và ấn định rằng khi hiến pháp "hoàn thành" sứ mệnh của nó thì giá trị thi hành của hiến pháp phải bị chấm dứt.
Thế thì, lý do khai tử hiến pháp 1946 hòan toàn vô căn cứ. Cái chết của hiến pháp 1946 là một cái chết oan khiên, cái chết ngụy tạo. Hiến pháp 1946 đã bị ĐCSVN xé bỏ một cách tức tưởi vì hiến pháp 1959 không có lý do chánh đáng và hợp pháp để thay thế hiến pháp 1946.
Hơn nữa, vì nhà nước xác nhận hiến pháp 1959 là hiến pháp kế thừa của hiến pháp 1946 và đã cam kết điều hành đất nước theo tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946 nên sự thay đổi hiến pháp cũng phải tuân thủ yêu cầu của hiến pháp 1946.
Điều 70 của Hiến Pháp 1946 liên quan đến vấn đề thay đổi hiến pháp qui định như sau:
“Sửa đổi hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viên bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết."
Thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 theo tài liệu của chính Đảng Cộng Sản dẫn chứng ở trên, đã chứng minh sự ra đời của hiến pháp nầy đã không theo đúng thủ tục tu chính hiến pháp qui định trong điều 70 của hiến pháp 1946.
Việc đem dự thảo hiến pháp ra cho "tòan dân" thảo luận và đóng góp ý kiến "một cách sôi nổi” như tài liệu ĐCSVN cho biết là một thủ tục tốt, nhưng hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Hiến pháp 1946 không đòi hỏi nhân dân phải thảo luận và đóng góp ý kiến một cách … sôi nổi. Hiến pháp 1946 qui định rõ ràng, minh bạch, ngắn gọn và dễ hiểu là những thay đổi hiến pháp phải được nhân dân phúc quyết. Thủ tục phúc quyết này cần được hiểu là phải được thực hiện qua một cuộc trưng cầu dân ý (referendum) tự do để thể hiện sự chấp thuận của toàn dân. [8]
Sau khi tự ý bãi bỏ quyền phủ quyết của nhân dân trong quá trình thay đổi hiến pháp, ĐCSVN đã hợp thức hoá thủ tục bất hợp hiến nầy với hiến pháp 1959. Điều 112 của hiến pháp 1959 quy định thủ tục Sửa Đổi Hiến Pháp như sau:
Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
So sánh điều khoản Sửa Đổi Hiến Pháp của hiến pháp 1946 và hiến pháp 1959, chúng ta thấy rằng với hiến pháp 1959, nhà cầm quyền CSVN đã loại hẳn vai trò phúc quyết của nhân dân. Hơn thế nữa, ĐCSVN như thể sợ nhân dân đứng lên đòi lại quyền phúc quyết nên phải nhấn mạnh thêm là chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Và dường như họ tin rằng nếu họ tự ý thay đổi điều khoản tu chính hiến pháp như thế thì họ có toàn quyền và tùy nghi thay đổi toàn bộ hiến pháp cho thích hợp với nhu cầu chính trị bất chấp giá trị thiêng liêng của khế ước chính trị giữa nhân dân và nhà cầm quyền.
Vì sự thể quyền phúc quyết những thay đổi hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nước của nhân dân,
Vì sự thể điều 70 hiến pháp 1946 qui định thủ tục pháp lý của sự thay đổi hiến pháp,
Vì sự thể lý do sửa đỏi hiến pháp có tính chất ngụy tạo,
Vì sự thể thủ tục sửa đổi hiến pháp để cho ra đời hiến pháp 1959 đã vi phạm nghiêm trọng điều 70 nầy,
Vì sự thể hiến pháp 1959 và các hiến pháp sau đó tước đoạt quyền sửa đồi hiến pháp của nhân dân Việt Nam
Chúng ta có thể khẳng định rằng, hiến pháp 1959 cùng các hiến pháp xuất hiện sau đó hoàn toàn không có dân chủ, bất hợp hiến và bất hợp pháp vì không có tính kế thừa và tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946. Và vì thế, các hiến pháp kế thừa không có năng lực pháp lý để xác định tính chất hợp pháp và chính thống của nhà cầm quyền .
IV. Lối Ra và Lối Về
Nhận định về tính chất dân chủ của thủ tục lập hiến của nước ta hiện nay, luật sư Nguyễn Văn Thảo, cố vấn pháp luật của quốc hội và bộ chính trị ĐCSVN, trình bày trong bài viết "Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp" đăng trong Tạp Chí Cộng Sản số 12 tháng 6-2001, cho rằng thủ tục lập hiến của các hiến pháp xuất hiện sau hiến pháp 1946 không có tính cách dân chủ. Trong bài nầy Luật Sư Thảo đã có những nhận định về thủ tục soạn thảo hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 như sau:
"Thực tiễn nước ta có hai công thức soạn thảo (hiến pháp):
• Ban soạn thảo hiến pháp + trưng cầu dân ý (hiến pháp 1946)
• Ban soạn thảo hiến pháp + hỏi ý kiến nhân dân (hiếnpháp 1959, 1980, 1992)
Trong hai công thức trên, tổ chức trưng cầu dân ý là một thành tựu về phát huy dân chủ trực tiếp, thực chất là để từng công dân tham gia trực tiếp vào việc thông qua hiến pháp.
Công thức thành lập Ủy Ban soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân rồi trình lên Quốc Hội thông qua thì việc lấy ý kiến nhân dân khác hẳn với trưng cầu ý dân. Tập hợp ý kiến của nhân dân để chỉnh lý bản dự thảo Hiến Pháp, công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp." [10]
Một thủ tục soạn thảo hiến pháp mà "công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp" xác định tính chất mất dân chủ của hiến pháp nầy. Đó là trường hợp ra đời của các hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Đồng thời đó là lời xác minh sự vi phạm trầm trọng điều 70 của hiến pháp 1946 về nguyên tắc trưng cầu dân ý những thay đổi hiến pháp.
Với lý luận hiến pháp, luật sư Thảo muốn thay mặt ĐSCVN xác nhận với nhân dân rằng hiến pháp hiện nay, trên cơ sở điều 70 của hiến pháp 1946, không dân chủ, và do đó, không hợp hiến và hoàn toàn không có giá trị pháp lý.
Một chế độ hợp pháp không thể được xây dựng trên một hiến pháp bất hợp pháp. Đây là khủng hoảng hiến pháp lớn nhất trong mọi khủng hoảng hiến pháp liên quan đến giá trị chính thống (legitimacy) của chế độ.
Mặt khác, sự hiện diện của các đảng phái không Cộng Sản trong việc hình thành hiến pháp 1946 cho thấy rằng có một mối tương quan chặt chẽ giữa tinh thần dân chủ đa nguyên và hiến pháp 1946.
Đối với người Cộng Sản, hiến pháp 46 cùng với tuyên ngôn độc lập 1945 là những di sản tinh thần lớn nhất của phong trào Việt Minh. Những văn kiện lịch sử nầy không những là quan điểm chính trị lõi cốt của Hồ Chí Minh, mà còn là lời kết ước nghiêm túc nhất của những người Cộng Sản đối với nhân dân Việt Nam.
Do đó, nếu hiến pháp 1946 thể hiện những lý tưởng và ước vọng của thế hệ 1945 về một tổ quốc độc lập, về một thể chế chính trị dân chủ pháp trị và đa nguyên, là biểu tượng sự đoàn kết của toàn dân trong công cuộc đấu tranh chống Pháp, là đỉnh cao của các phong trào cách mạng từ Phan bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, và phong trào Cộng Sản yêu nước, thì cái chết của nó là sự phản bội toàn bộ lý tưởng cứu nước và dựng nước của thế hệ 1945 và của nhân dân Việt Nam.
Vì lý do trên, mọi thay đổi hiến pháp dựa trên hiến pháp hiện nay hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và tính chính thống lịch sử. Muốn tái lập tính chính thống lịch sử và pháp lý của chế độ hiện nay, muốn xây dựng một chế độ dân chủ đa nguyên, điều thiết yếu là Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam phải trở về với những giá trị của hiến pháp 1946, phải trả lại cho nhân dân quyền làm chủ đất nước, và quyền phúc quyết mọi thay đổi hiến pháp.
V. Kết Luận
Vì hiến pháp là luật pháp tối cao xác định giá trị pháp lý của nhà nước, do đó, với một hiến pháp không có cơ sở pháp lý như hiến pháp hiện nay, nhà nước không có năng lực pháp lý để tồn tại. Và nhà nước không thể tiếp tục tồn tại và lãnh đạo đất nước trong tình trạng không hợp pháp, không hợp hiến và không có tính chất chính thống.
Đối với nhân dân Việt Nam, vấn đề không phải là vấn đề thay đổi chắp vá vài ba chương, hay hai ba điều khoản của hiến pháp hiện nay như ĐCSVN đề nghị, hoặc chỉ bỏ điều 4 hiến pháp như một số nhà đấu tranh dân chủ đề nghị. Những thay đổi hiến pháp chỉ có giá trị khi quyền phúc quyết hiến pháp của nhân dân được tái lập.
Khổng Tử viết: "thượng bất chính, hạ tắc loạn". Trong thời đại dân chủ, một nhà nước không có cơ sở hiến pháp dân chủ hợp pháp và chính thống để chứng minh sự tồn tại của nó là một trường hợp "thượng bất chính" nghiêm trọng nhất của mọi trường hợp "thượng bất chính" và nó chắc chắn sẽ dẫn tới một kịch bản "hạ tắc loạn".
Chúng ta có thể nhận định rằng nổ lực giải quyết khủng hoảng hiến pháp là đầu mối để tháo gở chế độ thượng bất chính hiện nay. Nó sẽ là căn cứ địa hồi sinh dân tộc. Bất kỳ nhân dân một chọn lựa phương cách giải quyết khủng hoảng hiến pháp như thế nào, hoặc quay trở về với hiến pháp 1946 hoặc thực hiện một hiến pháp mới, tất cả đều phải tuân thủ nguyên tắc lập hiến của hiến pháp 1946. Nó sẽ là cơ sở pháp lý ắt có cho sự ra đời của một nước Đại Việt mới của thời đại 2000. Chỉ có giá trị của hiến pháp 1946 mới có thể tiếp nối tính chính thống về lịch sử và pháp lý của nhà cầm quyền, và phục hồi chổ đứng lịch sử của các đảng phái cách mạng yêu nước.
Với một hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nưóc của người dân, nhân dân Việt mới có thể hành xử quyền làm chủ đất nước của mình.
Chỉ có một chính quyền có giá trị chính thống về lịch sử và pháp lý mới có đầy đủ cơ sở vật chất và tinh thần để thực hiện công cuộc phục hưng dân tộc, phục hoạt văn hoá, và bảo toàn lãnh thổ, để tiếp nối sứ mạng cứu quốc tồn chủng của tiền nhân. Nội dung của cơ sở vật chất và tinh thần đó là một chế độ dân chủ pháp trị, đa nguyên đa đảng. Đó là nền tảng của sức mạnh dân tộc để đưa đất nước ra khỏi cơ chế độc đoán trì trệ và ao tù của chuyên chính, để đưa dân tộc Việt vào giai đoạn cất cánh kinh tế toàn dân. Có như thế, nước Đại Việt của thời đại 2000 mới có thể hoà nhập được với cộng đồng các dân tộc văn minh tiến bộ của nhân loại ở thế kỷ 21, và để rửa mối nhục nghèo đói, ngu dốt và lạc hậu xã hội chủ nghĩa của thế hệ 45, một thế hệ rất hào hùng nhưng vô cùng bất hạnh.
LS Nguyễn Xuân Phước
viết lại 4/17/2005
Tính chất bất hợp pháp của hiến pháp hiện nay
8/8/2002
Sách Tham Khảo và ghi chú
[1] Jean Jacque Rousseau, Social Contract, lưu trữ ở http://books.mirror.org/gb.rousseau.html
[2] Nguyễn Xuân Chữ, "Hồi Ký Nguyễn Xuân Chữ". Nguyễn Xuân Phát và Chính Đạo hiệu đính, Văn Hoá, Houston ấn hành 1996. trang 301-310
[3] Chú thích của người viết: Các tài liệu lịch sử về cuộc bầu quốc hội và danh sách quốc hội rất là thiếu sót. Tôi rất mong được các nhà sử học trong nước và ngoài nước góp thêm ý kiến và sử liệu.
[4] Nguyễn Lý Tưởng, Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang 77, Tác giả Xuất Bản Hoa Kỳ 2001
[5] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946,
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html
[6] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946,
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html
[7] Hoàn Cảnh Ra Đời và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1959
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp59.html
[8] Nguyễn Văn Thảo, "Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp", Tạp Chí Cộng Sãn tháng 6-2001 http://www.cpv.org.vn/tccs/122001/10-nguyenvanthao.htm
[9] ibid.
[10] Lê Xuân Khoa, Việt nam 1945-1995, Tiên Rồng Xuất Bản, Hoa Kỳ 2004.
Inscription à :
Articles (Atom)