1.[z-qhx] (H) [qhx] (H) [xhds] (H) [stls] (H) [tacs] (H) [db] (H) [gfv] (H) [news] (H) [TdDcNq] [H] - 2.DOWNLOAD TaiLieu - 3. VUOT TUONG LUA - 4.[Chu Viet] - 5.[Audio] 6.[SuThat] - 7.[Thu doan cs d/v Ton giao] (10.H_mt) (11.H_qh)

mercredi 31 janvier 2007

Vai tro\ cua hcm trong Cai Cach Ruong Dat

Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cải Cách Ruộng Đất


Nguyễn Quang Duy Cuộc Cải cách ruộng đất (CCRĐ) tại miền Bắc Việt Nam là sự kiện có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Sự kiện này đã dẫn đến việc tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động phải ra các quyết định sau: ngưng chức Tổng Bí thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị và loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Sau nhiều năm bị che đậy, các tài liệu, các bài viết, các hồi ký, các tác phẩm văn học... được phổ biến trong thời gian gần đây giúp chúng ta biết thêm sự thật về cuộc cải cách ruộng đất này.

Tuy vậy trong năm mười năm qua vai trò của Hồ Chí Minh trong CCRĐ vẫn được đặt ra với nhiều câu hỏi. Có thật ông chỉ theo lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông? Có thật ông chỉ là thiểu số không đủ quyền lực để ảnh hưởng đến các cố vấn Trung Quốc? Có phải ông chỉ muốn tiến hành giảm tô? Có phải ông đã khóc khi biết được các tội ác do CCRĐ gây ra?… Các câu hỏi này càng lúc lại càng trở nên cấp thiết khi Đảng Cộng sản (ĐCS) không ngừng tạo những huyền thoại về Hồ Chí Minh. Vừa rồi Bộ Chính trị lại ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW "yêu cầu toàn dân học tập để nhận thức về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của lý tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Những công việc này chỉ làm xa dần con người thực của ông. Hồ Chí Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng "người cày có ruộng" của nông dân Việt Nam. Khi còn ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lãnh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 8/2/1928, ông viết: "Tôi tranh thủ thời gian viết 'những ký ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người 'anh hùng' trong 'những ký ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân uỷ nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lãnh tụ của nông dân cách mạng." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265). Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: "... đồng chí Bành Bái ở Trung Quốc, gia đình đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đã tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).

Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của ĐCS Việt Nam) được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm sách lược hàng đầu. Sách lược 2 của ĐCS ghi rõ: "Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 297). Chương trình hành động thì hướng đến việc: "Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299). Các văn kiện thành lập ĐCS Đông Dương đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản, soạn ra.

Ít tháng sau, ĐCS đã lãnh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu "trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ" được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến. Cuộc nổi dậy đã bị Pháp đàn áp dã man. Từ đó, chia rẽ giữa các các tầng lớp nông dân ngày một trầm trọng hơn.

Năm 1945, khi nắm được chính quyền, một mặt Hồ Chí Minh và ĐCS phải lo đối đầu với Pháp, mặt khác vì đa số các đảng viên và cán bộ đều xuất thân từ các gia đình địa chủ hay phú nông, việc phát động cách mạng thổ địa đã không thể tiến hành ngay. Mãi đến năm 1949, khi ĐCS Trung Hoa đã chiếm xong lục địa, cửa hậu cần mới được khai thông. Việt Minh nhận được những viện trợ dồi dào từ Quốc tế Cộng sản, nhất là từ ĐCS Trung Hoa. Chiến trường Việt Nam ngày một thuận lợi hơn cho lực lượng Việt Minh. Khi ấy Hồ Chí Minh và ĐCS mới nghĩ đến việc tiến hành CCRĐ, mở đầu bằng việc giảm tô cho nông dân. Ngày 14/7/1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 78 SL quy định chủ đất phải giảm địa tô 25 phần trăm so với mức trước năm 1945. Ngày 25/1/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ toạ, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ. Ngay sau đó, ngày 5/2/1953, tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, Hồ Chí Minh đã vấn an các đảng viên và cán bộ tham dự như sau: "Địa chủ cũng có đôi người làm cách mạng, nước ta như các nước khác, ta cũng có vài đồng chí, đại địa chủ mà làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền của giúp cho Đảng hết, cam tâm chịu tù đày. Họ tuy là người trong giai cấp địa chủ nhưng lập trường và tư tưởng đã đứng về phe vô sản, là người của giai cấp công nhân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 357). Ngày 12/4/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 SL về Cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo. Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định tiến hành CCRĐ. Trong báo cáo trước Quốc hội khoá I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đã phát biểu "Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I, đại diện Sài Gòn Chợ Lớn, giải thích "phóng tay" nghiã là "cứ việc làm mạnh thả cửa" (Nguyễn Văn Trấn, trang 266). Ông Nguyễn Minh Cần giải thích "là làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ". Ông còn cho biết: "Ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được". Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng "Trời ơi! Đảng của tôi đã nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh." (Nguyễn Văn Trấn, trang 266). Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã ra chỉ tiêu: "Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất..." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đã: "... giết chết bao nhiêu vạn sinh linh". Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xã tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh Long (xem Nguyễn Minh Cần). Bà là người đã che giấu và nuôi dưỡng các lãnh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... trong thời gian ĐCS còn hoạt động bí mật. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin. Trong Hồi ký Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là: (1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố; (2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố; (3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là "... bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam". Ông viết tiếp: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!" Trong hồi ký Những kỷ niệm về Bác Hồ, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ông Hoàng Tùng cho biết: "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính trị Bác nói: 'Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa.' Sau cố vấn Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: 'Tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.' Và họ cứ thế làm". Trong hồi ký Mặt thật, nguyên Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, nhà báo Thành Tín (Bùi Tín) đã kể rằng theo lập luận của đội CCRĐ thì " Việc con mụ Năm đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa chủ là rất ngoan cố xảo quyệt và tàn bạo, chúng không từ thủ đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn sáng suốt dù chúng giở thủ đoạn nào." Thành Tín cũng viết "Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: 'Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức.' Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này". Thành Tín viết tiếp: " Thế nhưng không có gì động theo hướng đó cả! Bởi vì người ta mượn cớ đã quá chậm. Các phóng viên báo chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi ". Qua Thành Tín ta cũng biết được suy nghĩ của Hoàng Quốc Việt: " Đến Bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ... ‘Họ’ là các ông con trời đặc phái viên của Mao ". Thành Tín nhận xét: " Trước hết Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về chuyện này; và dù không biết, là chủ tịch nước, chủ tịch Đảng ông cũng phải chịu phần trách nhiệm. Huống hồ gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm. Ông không can thiệp thì ai có thể can thiệp? Ông để mặc cho nước ông bị một số kẻ nước ngoài (cố vấn Tàu) lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế ông đã từ nhiệm vị trí trách nhiệm của mình ". Trong hồi ký Giọt nước trong biển cả, ông Hoàng Văn Hoan đã cho rằng Ủy ban CCRĐ "... tự cho phép các đội CCRĐ được bắn vào địa chủ gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở đầu từ Thái Nguyên, sau lan tràn đi nhiều nơi, coi là một phương pháp tốt, để nâng cao uy thế của nông dân. " Ông nêu ra điều 36 của luật CCRĐ quy định: " Đối với kẻ phạm pháp thì xét xử theo pháp luật, nghiêm cấm việc bắt bớ và giết chóc trái phép, đánh đập hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác ". Ông cũng đã viết: "Tham dự xong Hội nghị Trung ương về CCRĐ, tôi lại trở ra Bắc Kinh. Thủ tướng Chu Ân Lai được biết tin và rất quan tâm về vấn đề sai lầm trong CCRĐ, khi gặp tôi liền hỏi: Việc sai lầm trong CCRĐ có liên quan gì đến các đồng chí cố vấn Trung Quốc hay không? Tôi trả lời: Kinh nghiệm CCRĐ của Trung Quốc là rất tốt. Ủy ban CCRĐ ở Việt Nam phạm sai lầm, như coi thành phần địa chủ lên quá nhiều, đánh vào thành phần phú nông và trung nông, đánh vào những người chỉ có một ít ruộng đất nhưng nguồn thu nhập chính là những nghề nghiệp khác, đánh vào những địa chủ kháng chiến, địa chủ có công với cách mạng, đặt biệt là đánh tràn lan vào các cơ sở Đảng, thì đó là sai lầm của Ủy ban CCRĐ Việt Nam, chứ không phải là sai lầm của các cố vấn Trung Quốc". Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch Hà Nội, đã hết sức ưu tư về việc " những người lãnh đạo cộng sản trong Bộ Chính trị và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, Phó Thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một bản án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu của một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc! ". Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét một cách dứt khoát: " Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì việc mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người bào chữa cho ông là một chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không phải là chỉ cứu được bà Nguyễn Thị Năm, nó còn cứu hằng ngàn người bị giết oan trong cả Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê. Nhưng đã muộn " . Vũ Thư Hiên còn cho biết ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên thư ký riêng của Hồ Chí Minh, đã nói thẳng với ông Hồ: "Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác vẫn còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào đồng chí". Cũng qua Vũ Thư Hiên ta biết được ông Vũ Đình Huỳnh đã "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ". Điểm qua những hồi ký, suy nghĩ, ưu tư kể trên, ta thấy được vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung còn rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn in đậm nét trong tâm trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, vào sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và ĐCS, trong đó có người từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải được làm sáng tỏ. Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài "Địa chủ ác ghê". Bài viết này đã được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín cho biết, "các phóng viên báo chí các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi". Nhân tiện người viết xin được đăng toàn bài để bạn đọc có thể cùng suy ngẫm.
Địa chủ ác ghê Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá - thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ: Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:

Giết chết 14 nông dân.

Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người - năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân - Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.

Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào! Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.

Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.

Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là: Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng, Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể! (21-7-1953)

Vì bài báo gọi bà Nguyễn Thị Năm là Cát-hanh-Long nên người viết theo đó mà gọi. Có người còn gọi bà là bà Cát Thanh Long hay bà Cát Thành Long, không biết danh hiệu nào là đúng? Nhà báo Thành tín cũng viết: "Một số nông dân chất phác ngây thơ, kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán bộ chiến sĩ là con nuôi của bà, bà có công với kháng chiến, nên xếp là địa chủ kháng chiến". Nhóm từ "mấy tên lâu la" được dùng trong bài báo nêu trên có lẽ để kết tội các nông dân hiền hoà, chất phác đã không chịu đấu tố bà Năm và hai người con của bà. Báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, bài báo phải được duyệt xét kỹ của Trung ương Đảng trước khi cho phổ biến. Khi đọc bài báo này, người viết cảm nhận một điều là bố cục, hình thức và văn phong của bài viết rất tương tự với bản "Tuyên ngôn Độc lập" do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945, phần lên án thực dân Pháp. Tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất ghi rõ têntác giả các bài viết trong đó là C.B. - đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6 (từ 1-1951 đến 7-1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đã đếm được tất cả 15 bài viết của Hồ Chí Minh ký tên là C.B. Không thấy bài viết này được nhắc đến trong bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập. Tuy nhiên trong Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử tập 5 trang 418 ghi rõ: "Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Địa chủ phản động ác ghê, ký bút danh Đ. X. đăng trên báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 2/11/1953), tố cáo tội ác của một số địa chủ phản động đã cấu kết với thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước, mưu phá hoại chính sách ruộng đất của Chính phủ. Chúng là bọn ‘mặt người dạ thú’ và tội ác của chúng là ‘tuyệt vô nhân đạo’." Có thể bài viết của ông Hồ trên báo Nhân Dân đã được đăng lại trên báo Cứu Quốc. Khi đọc bản thảo bài viết này, ông Nguyễn Minh Cần nhớ lại năm 1953 ông đã được đọc bài "Địa chủ ác ghê" từ nội san Cải cách ruộng đất được phổ biến trong nội bộ Đảng Lao động và các cán bộ CCRĐ. Ông Hoàng Văn Chí có viết trong khoá chỉnh huấn trung ương nhằm đả thông tư tưởng đảng viên và cán bộ làm công tác CCRĐ, Hồ Chí Minh đã ví von: "đế quốc là con hổ mà địa chủ là bụi rậm để cho hổ núp. Vì vậy muốn đuổi hổ phải phá cho kỳ hết bụi rậm." (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Chương 12, trang 90). Khác với các vụ xử tử trong CCRĐ sau này, Hoàng Tùng xác nhận Bộ Chính trị đã họp và quyết định về vụ xử bắn bà Năm. Ông Nguyễn Minh Cần nói rõ hơn: "bà đã bị quy là địa chủ cường hà ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, Ủy ban CCRĐ Trung ương duyệt y và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chuẩn y". Theo người viết, ít nhất có 7 lý do để bà Năm được chọn làm thí điểm đầu tiên cho cuộc phóng tay phát động quần chúng CCRĐ:

Thứ nhất, phương châm chính trong CCRĐ là "thà giết lầm 10 người vô tội, còn hơn để thoát một kẻ thù". CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa bần cố nông và địa chủ (nông dân có ruộng). Do đó địa chủ không thể được lọt lưới, được bỏ sót. Bà Năm lại có đến 2,789 mẫu đất (Thanh Cần, trang 3), là một đại địa chủ.

Thứ nhì, phát súng đầu tiên bắn vào một phụ nữ để xác định CCRĐ là một cuộc đấu tranh giai cấp và trong đấu tranh giai cấp không phân biệt địa chủ phong kiến là phụ nữ hay đàn ông, già hay trẻ...

Thứ ba, như Hồ Chí Minh thường tuyên bố "toàn dân kháng chiến", địa chủ đã chấp nhận ở lại vùng kháng chiến, đương nhiên là chấp nhận theo, đóng góp, tham gia kháng chiến. Xử bắn bà, và những địa chủ trong vùng kháng chiến, là để phủ nhận công lao đóng góp của thành phần này. Nay đã có Quốc tế Cộng sản, có giai cấp công nông, khẩu hiệu "toàn dân kháng chiến" không còn cần thiết nữa.

Thứ tư, bắn bà Năm là dấu hiệu cho phép trừng phạt tất cả những người có ruộng đất, có tài sản, có ảnh hưởng kinh tế chính trị trong và ngoài Đảng Lao động Việt Nam. Theo ông Đoàn Duy Thành, bà Năm là địa chủ đã hiến ruộng cho chính quyền kháng chiến.

Thứ năm, ảnh hưởng kinh tế và chính trị của bà, và của các địa chủ khác, cần phải được thủ tiêu để mở đường xây dựng chế độ chuyên chế toàn trị.

Thứ sáu, xử bắn bà Năm, và giai cấp địa chủ, là nhằm sách động nông dân thực thi sách lược "chia để trị".

Thứ bẩy, xử bắn bà Năm và tiêu diệt giai cấp địa chủ là nhằm nâng cao quyền lực của Hồ Chí Minh và ĐCS. Nguyễn Văn Trấn đã viết: "Các đoàn CCRĐ đã rút kinh nghiệm về cách đem phạm nhân đi bắn, và đã cho lệnh bắn sau lưng kẻ thọ hình. Vì kinh nghiệm cho thấy, đem trói nó vào nọc trụ để bắn thì nó sẽ la to Hồ Chí Minh muôn năm, Đảng Lao động muôn năm" (Nguyễn Văn Trấn, trang 270). Vũ Thư Hiên cũng nhắc đến việc có người đã tự tử để lại bức thư tuyệt mệnh: "Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ với Đảng. Tôi không phản bội, Hồ Chí Minh muôn năm!" (Vũ Thư Hiên, chương 1).

Chính vì những lý do trên mà Hồ Chí Minh mới đích thân viết bài trên báo Nhân Dân đấu tố bà Năm. Trong một lá thư, đề ngày 18/8/1956, gởi đến "đồng bào nông thôn" nhân dịp CCRĐ căn bản đã hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn". Ông viết tiếp: "Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại vì kẻ địch phá hoại điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ đã xảy ra những khuyết điểm sai lầm" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507). Riêng việc "kẻ địch phá hoại điên cuồng" đã được ông giải thích như sau: "Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế." (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358). Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ĐCSVN, 6/1/1960, Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông tuyên bố: "Buổi đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến đã phát triển mạnh, cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân thì Đảng đã cương quyết phát động quần chúng cải cách ruộng đất hoàn thành thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đã liên tục thu được nhiều thắng lợi" (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596). Hồ Chí Minh đã hiểu rõ nguyện vọng của dân tộc là độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc, người cày có ruộng... Trong điều 12, Hiến pháp 1946, còn được gọi là “Hiến pháp Cụ Hồ” vì ông là trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, đã xác định: "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm". CCRĐ chẳng những vi hiến, nó còn là một tội ác với số nạn nhân chưa thể hay không bao giờ có thể tính được. Hồ Chí Minh đã lợi dụng các khao khát, các ước vọng của người dân để xây dựng quyền lực cho ông và cho ĐCS Việt Nam. CCRĐ không phải chỉ tàn sát những thường dân vô tội. Nó còn phá hoại những truyền thống tốt đẹp, phá hoại đạo lý luân thường, phá hoại tâm linh văn hoá của dân tộc Việt Nam (xin xem Nguyễn Minh Cần). Quả lời ông Vũ Đình Huỳnh "... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ" là hoàn toàn chính xác. Bài viết này mong làm sáng tỏ, làm minh bạch một phần của quá khứ, không phải để gợi lại hận thù, mà để xây dựng con đường đi tới tránh xa những tội ác mà người đi trước như Hồ Chí Minh đã mắc phải

;;;

Lo^t. ma(t. na. to^? chu*'c bip bo*m MTGPMN

Lột mặt nạ tổ chức bịp bợm "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam"

Gia'o Su+Hứa Hoành

Lột mặt nạ tổ chức bịp bợm "Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam"

(Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản)

Các ông, các bà trí thức tư sản miền Nam trốn theo "Mặt Trận Giải Phóng" (gọi tắt của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam), ông nào ông nấy chức tước to tổ bố, cao đụng trần nhà, đọc lên kêu như sấm. Nào là:

- Trịnh Đình Thảo, Chủ Tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Binh Việt Nam, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, Chủ tịch đoàn Ủy Ban Trưng Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.

- Bác sĩ Phùng Văn Cung, Phó Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, kiêm Bộ Trưởng Nội Vụ...

Nhưng tại mật khu, hàng tuần, tất cả quí vị trí thức khoa bảng ấy phải họp lại để học "nghị quyết". Nắm giữ các chức vụ chóp bu, quí vị ấy không có quyền thảo ra nghị quyết, đường lối sao mà phải học tập?

Vậy thì các ông bà trí thức ấy chỉ là những con hạc trong đình, các chậu hoa trong phòng khách, còn quyền hành thực sự do "bác và đảng" núp trong bóng tối chỉ huy. Khi tỉnh ngộ, bao nhiêu biệt thự, phố xá, đồn điền, gia sản, ruộng đất (Trịnh Đình Thảo, Nguyễn Hữu Thọ, Lâm Văn Tết... ), cơ xưởng (hãng sơn của kỹ sư Nguyễn Hữu Khương), cửa hàng (nhà thuốc của dược sĩ Mã Thị Chu ở Cần Thơ, dược sĩ Hồ Thu) trở thành tài sản của nhà nước. Nhiều vị gia đình tan nát như Trịnh Đình Thảo, Phùng Văn Cung, Hồ Thu, nhà văn Thanh Nghị...

“Giải phóng” miền Nam rồi, quí vị ấy được “Bác và Đảng” đền bù công lao xứng đáng bằng phiếu mua lương thực: 13 ký gạo, nửa cân đuờng cát, 2 bao diêm quẹt, 2 cái lưỡi dao lam cạo râu, nửa cân thịt ba rọi... mỗi tháng để ngồi choi xơi nước, hoặc giữ các chức "hàm" (hữu danh vô thực). Mấy năm sau, họ chết trong âm thầm ghẻ lạnh của chính quyền mà họ đã cúc cung phụng sự, thiếu cả tiếng trống, tiếng kèn tiễn đưa đến phần mộ.

"Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam", sao y bản chánh "Mặt Trận Dân Tộc" của Trung Cộng:

Cái gọi là "Ban nghiên cứu lịch sử đảng", chỉ là một sự tập họp các bồi bút, được gọi là sử gia, nhận chỉ thị của Bộ Chính Trị thêu dệt, bịa đặt, rồi tô vẽ, minh họa để cá nhân ông Hồ trở thành một vĩ nhân, văn võ toàn tài, một vị thánh sống. Sự thật lịch sử đã được phơi bày: trình độ học vấn của ông Hồ chỉ dở dang lớp 7, ông Hồ chưa biết khái niệm phổ thông về các khoa học thường thức. Trong cuộc đời lưu lạc với tư cách một bồi tàu, một cán bộ làm lính đánh thuê cho cộng sản quốc tế nhiều năm, ông có đủ kinh nghiệm, nhiều mưu gian mẹo vặt để cóp tổ chức nầy, bắt trước tác phẩm kia, mượn danh ngôn của người khác, làm của riêng mình, mà không bao giờ nêu xuất xứ. Đó là thái độ thiếu minh bạch, người tự trọng không ai làm.

Trong thời “kháng chiến chống Pháp” 1945-1954, ông Hồ luôn ngụy trang, đội lốt người quốc gia, lập các tổ chức dưới danh nghĩa dân tộc như Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941), rồi Mặt Trận Liên Việt để che giấu bộ mặt thật cộng sản của mình. Trong cuộc chiến tranh Quốc Cộng với người quốc gia ở miền Nam, ông mập mờ lập lại tổ chức mà danh xưng na ná như tổ chức của người quốc gia. Rồi dùng lời ngon ngọt tuyên truyền lừa dối, phỉnh gạt các trí thứ miền Nam. Có khi giả mời đi họp, rồi cưỡng bách, bắt cóc đưa ra mật khu, gán cho họ những chức vụ hữu danh vô thực để làm bình phong và lừa dối quốc dân đồng bào cùng dư luận ngoại quốc.

Hơn 20 năm làm cán bộ cộng sản quốc tế, lãnh lương, phụ cấp, cả giấy thông hành, ông Hồ qua các nước hoạt động để xuất khẩu chủ nghĩa cộng sản, chớ đâu phải để “giải phóng dân tộc Việt Nam”. Với nhiệm vụ nầy, ông Hồ tới lui Trung Quốc trước sau tới 5 lần. Những năm ở mật khu Diên An (1938-1939), ông Hồ gia nhập đảng Cộng Sản Trung Hoa, làm lính đánh thuê cho Mao Trạch Đông. Nhờ đó, ông đã cóp nhặt được các tổ chức bịp bợm của Trung Cộng đem về áp dụng tại Việt Nam. Nhiều người không biết, tưởng đâu ông Hồ tài ba, còn đảng Cộng sản là "đỉnh cao trí tuệ".

Để quí độc giả thấy rõ bộ mặt của họ, chúng tôi kính mời quí vị đọc qua giáo điều của Cộng Sản quốc tế: “Muốn tiến hành cuộc cách mạng vô sản, phải chia thành hai giai đoạn: giai đoạn 1 dùng chủ nghĩa dân tộc làm chiếc áo che ngoài và thiết lập chính quyền giai cấp tư sản (tức là Chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam sau nầy); giai đoạn 2 thật sự đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa."

Trong đại hội Cộng Sản quốc tế kỳ 7 (1935), họ đã chỉ thị cho Trung Cộng: “Phải thay đổi đường lối làm sao khi Mao Trạch Đông chạy thoát được sự bao vây của Quốc Dân Đảng trong cuộc 'vạn lý trường chinh' (1935) là phải lập Mặt Trận Dân Tộc, rồi dùng chiêu bài kháng Nhựt cứu nước". Ông Hồ đã bê nguyên xi các tổ chức của Trung Cộng từ các "hội cứu quốc, căn cứ địa, lực lượng vũ trang”, đến các khẩu hiệu lừa bịp quần chúng... về áp dụng tại Việt Nam. Ông áp dụng y chang các tổ chức ấy như “sao y bản chánh” mà thôi. Mặt Trận Việt Minh (19/5/1941) rồi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (1960), gọi tắt là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) cũng chỉ là một sự bắt chước các tổ chức của Trung Cộng trong thời kỳ tương tranh với chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng khi Nhựt đang xâm lăng lục địa.

Sách lược nầy, ngoài mặt thì kêu gọi "đoàn kết rộng rãi toàn dân, các đảng phái, tôn giáo, nhưng chủ ý của họ là phân hóa hàng ngũ người quốc gia, tiêu diệt chủ nghĩa dân tộc, dồn tất cả mọi lực lượng để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam (tức Việt Nam Cộng Hòa).

Người ta còn nhớ, tại hội nghị thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1941, ông Hồ có nhắc nhở cán bộ của ông ta: “Trước cục diện mới, vấn đề đoàn kết dân tộc càng quan trọng. Chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng để thành lập một mặt trận mà hình thức và tên gọi sao cho tuyệt đối phù hợp với cục diện đó” (”Hồ Chí Minh tại Trung Quốc”, Tưởng Vĩnh Kinh, Thượng Huyền dịch, trang 186).

Rõ ràng ông Hồ đã "sao y bản chánh" các tổ chức "mặt trận dân tộc" của Trung Cộng cùng các khẩu hiệu, tên gọi các tổ chức phụ (cứu quốc), các khẩu hiệu (chống Mỹ cứu nước) chỉ là sao chép lại "kháng Nhựt cứu nước" của Trung Cộng từ năm 1937.

Khi Mao Trạch Đông nhận chỉ thị của cộng sản quốc tế để thành lập Mặt Trận Dân Tộc và tung ra khẩu hiệu Kháng Nhựt Cứu Nước thì mục đích thật sự của nó không phải là đánh Nhựt, mà nhắm tấn công chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng. “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phòng Miền Nam” cũng không phải chống Mỹ như họ đề ra, thật sự chỉ là sự tập họp các phần tử bất mãn với chính quyền miền Nam, tạo sức mạnh để cộng sản xâm lược miền Nam và tiến hành cách mạng vô sản mà thôi. MTGPMN chỉ là một sự a tòng mập mờ theo tổ chức Mặt Trận Dân Tộc của Mao Trạch Đông do cộng sản quốc tế chỉ đạo, có mục đích phục vụ lợi ích cho Liên Xô. Lập MTGPMN, cộng sản có mục đích theo đuổi con đường cách mạng vô sản, làm tay sai cho Liên Xô, rồi Trung Quốc để xuất cảng chủ nghĩa cộng sản qua các lân quốc. Sau năm 1975, chúng ta đã thấy rõ việc làm của họ, và sự sụp đổ của nó theo mẫu quốc Liên Xô vào năm 1989.

Loạt bài nầy chia làm 4 phần:

- phần 1,và 2: Sự thật về các trí thức miền Nam theo cộng sản.

- phần 3: Những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản.

- phần 4: Vãn tuồng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.



Phần 1

Lột mặt nạ tổ chức bịp bợm Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam

* MTGPMN gởi Ba Trà, cán bộ trí vận xuống chùa Phước Hậu ở Trà Ôn để tuyên truyền rỉ tai Hòa Thượng Thích Thiện Hoa (Viện trưởng Viện Hóa Đạo) về chủ trương, đường lối của Mặt Trận đối với Phật Giáo. Trước đó, họ cho người đến chùa Ấn Quang hẹn ngài về Trà Ôn.

* Luật sư Trịnh Đình Thảo tâm sự với giáo sư Lê Văn Hảo tại nhà khách trung ương Đảng tại Hà Nội: "Bọn mình chỉ là những hình nộm, người ta sai làm gì thì làm nấy, chứ chẳng có chút quyền hành nào cả..."

* Trần Bạch Đằng, Thường vụ ủy viên Matc Trận Saigon Gia Định, có nhà trọ ở đường Phan Kế Bính và mua một chiếc xe du lịch Simca 1000 do người nhà là Nguyễn Hải Thọ đứng tên kiêm tài xế. Nguyễn Hải Thọ là em vợ của người anh ruột bà Nguyễn Văn Thiệu, giáo sư Pháp Văn ở trường Trung Học Bến Tranh (Tân Hiệp, Định Tường). Sau khi cộng sản chiếm miền Nam, Thọ làm giám đốc công ty cung ứng xuất khẩu...

Nhớ lại cuộc kháng chiến chống Pháp giành độc lập, Việt Minh không bao giờ tự nhận mình là cộng sản. Trong suốt đoạn đường chiến đấu 9 năm đó (1945-1954), Việt Minh tạo ra “chính nghĩa giai đoạn”, để tập họp mọi tầng lớp dân chúng ủng hộ và hy sinh cho quyền lợi của đảng họ. Sắp tới chiến thắng, họ trở mặt: gạt tất cả mọi thành phần trí thức, tiểu tư sản, địa chủ ra ngoài cuộc kháng chiến. Chiến thắng rồi, những thành phần ấy trở thành kẻ thù, chỉ trừ giai cấp vô sản.

Trước khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, không có một trí thức nào ở miền Nam ủng hộ cộng sản. Biết rõ như vậy, nên Việt Cộng phải ngụy tạo một chiêu bài mới: Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để lừa dối đồng bào, dư luận cả trong lẫn ngoài nước. Việt Cộng cưỡng ép một số thân hào nhân sĩ tiêu cực, đối lập, những trí thức bất mãn với chính quyền quốc gia, trốn ra bưng, rồi gắn cho họ cái chức ủy viên trung ương MTGPMN để họ tiến hành cuộc chiến tranh du kích, phá hoại. Lúc đó, họ gọi là "chiến tranh giải phóng" và đảng cộng sản được gọi là “đảng cách mạng”, giấu kín tông tích để mọi người hiểu lầm rằng “MTGPMN là tổ chức không phải cộng sản". Cái gian hùng và lừa bịp của Việt Cộng khiến nhiều trí thức ngây thơ, cả tin, lầm lạc mà trót theo họ. Sự thật, cái nhãn của MTGPMN là cộng sản. Chiếm được miền Nam rồi, MT và cái chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam trở thành cộng sản một cách trơ trẽn.

Trong "chiến tranh chống Mỹ", MT nhiều lần phong chức cho người nầy người nọ, dù khéo léo đến đâu, cũng chỉ tạo ra một tấm bình phong che chắn những thủ đoạn bất chính, những hành động tàn bạo, phi nghĩa. Người CS luôn luôn có tâm địa lắt léo, miệng lưỡi tráo trở. Chỉ tội nghiệp các phần tử trí thức miền Nam vì tin họ mà phải chịu làm bù nhìn, làm người tù bị giam lỏng ở mật khu để hưởng sự biệt đãi, mặc tình cho cán bộ CS tiếp tục dùng mưu gian mẹo vặt chiếm cho được miền Nam trù phú...

Trong cuộc chiến tranh quốc Cộng 1954-1975, các chính phủ VNCH phải luôn luôn vất vả đối phó với các phong trào phản chiến, đòi "hòa bình" tại hậu phương. Họ chiến đấu như người võ sĩ bị trói tay. Ngoài một thiểu số tu sĩ Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo bị VC tuyên truyền, liên miên làm áp lực, còn sinh viên, các trí thức thân Cộng, đối lập, bất mãn, nhưng chưa hiểu MTGPMN là CS, tập họp thành một lực lượng chống đối, làm cho tình thế mỗi ngày trở nên nguy ngập, tiềm lực chiến đấu của quân đội suy yếu. Trong môi trường đó, người bạn đồng minh chiến đấu Mỹ lại can thiệp vào nội bộ chúng ta, cưỡng bách chính quyền quốc gia nhập cảng thứ tự do quá trớn của Mỹ, tạo ra sự sơ hở, kẻ thù lợi dụng xâm nhập, lũng đoạn hàng ngũ, tuyên truyền, phá hoại. Đất nước đang lâm chiến một mất một còn với CS, lẽ ra tất cả mọi người không phân biệt, tôn giáo, đảng phái... phải tập họp thành một sức mạnh chung để chiến thắng, thì lại vô tình tiếp tay cho địch, làm đồng minh cho họ. Chính quyền quốc gia miền Nam sụp đổ do nhiều nguyên nhân, trong đó các phong trào phản chiến của các giới đã “đóng góp” công lao làm "ung thối" chế độ mà họ đang sống, đang hưởng những tiện nghi và phúc lợi. Lúc đó, báo chí miền Nam gọi những người nầy là những kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma CS” cũng không sai lắm. Chúng tôi không vơ đũa cả nắm, nhưng phải nhìn nhận những đoàn thể, tổ chức tôn giáo, sinh viên cũng có người tốt kẻ xấu. Chính vì ngây thơ tưởng rằng MTGPMN không phải là CS, nên nhiều người đã ủng hộ họ, để rồi sau năm 1975, phải bỏ tất cả sản nghiệp bôn đào ra ngoại quốc một cách tức tưởi. Bài học ấy còn sờ sờ, nhưng người quốc gia hay quên và dễ tha thứ...

Trước khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam, CS không có một người nào đủ uy tín để lôi kéo những phần tử trí thức, thân hào nhân sĩ miền Nam theo họ, CS “mượn đầu heo nấu cháo”, cưỡng bức một số trí thức tên tuổi ở miền Nam theo họ làm bình phong, rồi tuyên truyền lừa bịp, lợi dụng tên tuổi các trí thức ấy, lập mặt trận nầy, liên minh kia... thực chất chỉ là những tổ chức hữu danh vô thực, những con bù nhìn. Sách lược lừa bịp của VC trước sau như một, không bao giờ thay đổi. "Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng VC không bao giờ hết lừa bịp".

Chiếm được miền Nam rồi, các trí thức trong MT, trong chính phủ lâm thời bị thay thế, giải thể, để những tên CS lưu manh, thất học thay thế. Lúc chưa chiếm được miền Nam, họ mời mọc, quyến rũ, ép uổng để trí thức tham gia. Các ông Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết (nguyện Thượng Hội Đồng Quốc Gia), Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Kiết, các giáo sư Nguyễn Văn Chì, bà Nguyễn Đình Chi...ra rìa hoặc giữ những chức vụ hàm, trang điểm cho Mặt Trận Tổ Quốc.

Trong bài "Số phận trí thức trong hàng ngũ kháng chiến của Việt Minh" (1945-1954), chúng tôi quên, không nhắc đến một trí thức khác, cũng rất nổi tiếng, quê ở Bến Tre, du học bên Pháp về, tốt nghiệp ngành sinh vật học. Tuy khả năng chuyên môn của ông không liên quan gì tới kháng chiến chống Pháp như kỹ sư Vũ Quý Hân về Bắc, nhưng vì lòng yêu nước bồng bột, nên sau khi nghe ông Hồ và phái đoàn thuyết trình về hiện tình "hiện nay nước nhà đã độc lập", ông sẵn sàng về "xây dựng quê hương”. Người đó là giáo sư Dương Hữu Thời. Tôi không rõ giáo sư Dương Hữu Thời có liên hệ ruột thịt họ hàng gì với giáo sư Dương Minh Thới, thân phụ của bác sĩ Dương Quỳnh Hoa hay không.

Mấy tháng cuối năm 1946, Dương Hữu Thời về tới Saigon. Tình hình chiến sự mỗi ngày một gia tăng, còn kháng chiến quân liên tiếp thất bại, rút lui xa đô thành, làm cho giáo sư Dương Hữu Thời thất vọng. Tuy nhiên, giáo sư Thời là con người thầm lặng, ít lâu sau được “móc” ra bưng chiến đấu. Gặp các cấp chỉ huy kháng chiến, Dương Hữu Thời kể lại quá trình được đào tạo chuyên môn về sinh vật học của mình, nhưng mọi người hờ hững vì không biết ứng dụng tài năng ấy vào việc gì trong lúc chiến tranh. Tuy nhiên, nhờ chịu khó, ông mò mẫm tự coi sách chế tạo võ khí, đạn dược và trở thành một Trần Đại Nghĩa thứ hai ở khu 8, tuy không có một điều sáng tạo hay phát minh nào đáng kể. Từ đó, trong kháng chiến, giáo sư sinh vật học Dương Hữu Thời được gọi là kỹ sư Phương Thanh vì ông có giúp sửa chữa súng, chế tạo đạn. Năm 1954, Dương Hữu Thời tập kết ra Bắc, được bổ vào làm giáo sư trường đại học tổng hợp Hà Nội. Ông âm thầm làm việc, tận tụy giảng dạy, tự học tiếng Nga để nghiên cứu thêm sách Nga, cập nhật hóa kiến thức chuyên môn. Có người từng học với giáo sư Dương Hữu Thời kể lại: "Tuy là một nhà khoa học tận tụy với sinh viên, đóng góp nhiều công sức cho đất nước nầy, nhưng sự đãi ngộ của nhà nước dành cho ông rất đạm bạc, muộn màng. Ông như đứa con ghẻ, con rơi của chế độ, đầy nghi kỵ và mặc cảm về hàng ngũ trí thúc do tư bản đào tạo. Trong cuộc sống gian khổ của một công chức hạng trung, lẽ ra phải được đãi ngộ xứng đáng vì công lao to lớn, thế mà nhà nước lại bỏ rơi ông. Dù vậy, giáo sư luôn luôn làm việc cật lực, có lúc làm hiệu phó trường đại học, để đóng góp vào sự phát triển của đất nước lẽ ra phải có, nhưng đất nước càng ngày càng kiệt quệ, khánh tận, nghèo đói thêm. Nhiều lần ông kín đáo tâm sự với vài sinh viên thân tín. Cũng theo dư luận trong giới sinh viên, giáo sư Dương Hữu Thời là người rất xứng đáng phong danh hiệu "hàm giáo sư, phó tiến sĩ, nhà giáo nhân dân..." tuy nhiên những chữ xa xỉ ấy không đến được với ông.

Giáo sư Dương Hữu Thời âm thầm, tận tụy đóng góp tài năng của mình trong các lãnh vực khoa học, nhưng đời ông là cả một sự gian khổ, bất hạnh và bị lãng quên.

Đó cũng là số phận chung của những người trí thức trót theo phụng sự cho chế độ CS, phải tuyệt đối phục tùng, tận tụy và được hưởng sự... bạc đãi của họ.

Nói về những động lực khiến một số trí thức miền Nam theo MTGP thì có nhiều nguyên do khác nhau. Tuy nhiên, lý do chính và quan trọng hơn hết là tất cả đều tin rằng MTGPMN không phải là một tổ chức của CS. Theo họ, MTGPMN tập họp những thành phần quốc gia yêu nước, bất mãn chế độ hiện tại, muốn dấn thân tranh đấu cho nước nhà độc lập hòa bình, thoát khỏi sự lệ thuộc vào các cường quốc tư bản. Một lý do thầm kín khác là trong mỗi con người trí thức ấy, đều bộc lộ một tham vọng chính trị vô bờ "muốn làm lãnh tụ". Với họ, việc nầy thường bộc lộ qua việc cả hai vợ chồng đều trốn ra mật khu. Mong muốn chồng làm lớn luôn luôn thôi thúc các bà xúi chồng cùng tham gia MTGPMN để tìm địa vị. Chẳng hạn như trường hợp vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng - Vân Trang, vợ chồng bác sĩ Phùng Văn Cung, vợ chồng luật sư Trịnh Đình Thảo.

Sinh ra trong một gia đình đại trí thức, giàu có, gia sản cá nhân và bên vợ ông Thảo là những gia đình đại phú gia. Bà Thảo, nhũ danh Ngô Thị Phú, thuộc gia đình danh giá lớn, giàu có ở Sóc Trăng, thuộc dòng dõi hội đồng Ngô Phong Điều mà khắp miền Nam ai cũng nghe danh. Với thành phần giai cấp, gia sản như vậy, chắc chắn ông Thảo không bao giờ muốn theo VC. Lúc mới ra bưng, trong một lần họp mặt với các trí thức Saigon trốn ra, chính bà Thảo tuyên bố một câu giựt mình. Quí vị có biết bà Thảo nói gì không? Trong một bữa ăn do bà Thảo đãi, có bơ, sữa, phó mát, nho và vài món nổi tiếng của Pháp do chính con bà, đang học ở Thụy Sĩ gởi qua tiếp tế bằng máy bay, qua ngã Phnom Penh. Giữa bữa ăn thịnh soạn, đông đủ các trí thức Saigon mới trốn ra mật khu, bà Thảo nói:

- Thôi đừng nói tới CS tôi nghe, tôi sợ quá! Hồi ở dưới xứ tôi (Sóc Trăng), ai nghe nhắc tới CS cũng kinh hồn, vì hồi CS dậy (tức Nam Kỳ khởi nghĩa 1941), họ bắt người mổ bụng dồn trấu...

Nữ sĩ Vân Trang, vợ giáo sư Trần Kim Bảng nói:

- Gặp phản ứng của "bà cả" rồi!

Trong khi Nguyễn Hữu Thọ và Huỳnh Tấn Phát cũng mỉm cười cho vui lòng bà Thảo. Ông Võ Ngọc Thành, công chức cao cấp trong chính phủ VNCH mới trốn vô bưng cũng phụ họa thêm:

- - Làm gì thì làm, không bao giờ tôi theo VC.

(Tiết lộ của một ủy viên trung ương MTGPMN).

Các trí thức miền Nam ngây thơ, tin vào sự tuyên truyền của CS mà bị họ lợi dụng. Khi đã trốn ra bưng, họ bị kèm kẹp, không bao giờ có dịp "hồi chánh". Chúng tôi muốn kể lại vài trường hợp điển hình.

Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1982), là một trí thức lớn của miền Nam, sinh trong một gia đình danh giá, giàu có tại miền Bắc. Ông Thảo là người thứ ba trong số 4 anh chị em đều đỗ đạt.

- Anh cả Trịnh Đình Huyến, tốt nghiệp ngành canh nông (trường Công Chánh Hà Nội), ông được bổ nhiệm làm đốc công thủy lợi nhiều nơi tại Nam kỳ, có lúc ông sống ở Giá Rai, Bạc Liêu. Chính tại nơi đây, nhà văn Nguyễn Hiến Lê đi công tác thủy lợi, được quen biết với ông và trở thành con rể ông Huyến.

- Con thứ hai cũng tốt nghiệp trường Công Chánh ra, làm công chức cho Pháp.

- Ông Trịnh Đình Thảo, tốt nghiệp tiến sĩ luật khoa tại Pháp rất sớm, hồi hương về Nam kỳ năm 1929, hành nghề luật sư tại tòa Thượng Thẩm Saigon đến năm 1945. Trong thời gian ấy, nhiều lần ông bênh vực cho các nhà ái quốc Việt Nam bị Pháp bắt, đưa ra xét xử. Năm 1945, ông Thảo tham gia chánh phủ độc lập đầu tiên do cụ Trần Trọng Kim làm thủ tướng. Sau khi Việt Minh cướp chánh quyền, ông Thảo vẫn sống ở Saigon bằng nghề luật sư cho đến năm 1954, tên ông xuất hiện trong "phong trào hòa bình" cùng với một nhóm các trí thức khác như các ông Lưu Văn Lang, Michel Văn Vĩ, dược sĩ Trần Kim Quan, Từ Bá Đước, Phạm Huy Thông, Nguyễn Thị Lựu...

Ông Thảo có một người em gái, được gả cho một luật sư ở Hà Nội.

Ngày 10/8/1954, phong trào hòa bình chính thức ra tuyên ngôn: ngừng bắn vĩnh viễn; trao trả tù binh; thực hiện tự do dân chủ...

Ông bà Thảo có một ngôi nhà lớn như dinh tham biện tại Thông Tây Hội, Gò Vấp. Năm 1963, VC cho người móc nối luật sư Trịnh Đình Thảo (có lẽ là bà luật sư Ngô Bá Thành) cùng một số trí thức đối lập, bất mãn với chính quyền quốc gia, chống chế độ Ngô Đình Diệm về việc để Mỹ đổ quân ồ ạt vào Việt Nam, can thiệp vào nội bộ. Cán bộ trí vận MTGPMN luôn luôn tìm cách đưa chỉ thị, giao nhiệm vụ cho ông ta để lôi cuốn thêm các phần tử bất mãn khác, lập thành một nhóm làm áp lực, tranh đấu công khai chống chính quyền. Đầu năm 1965, tại tư gia ở Thông Tây Hội, Gò Vấp, luật sư Thảo tổ chức một buổi họp dưới hình thức ăn tiệc, đưa ra thăm dò ý kiến các trí thức đã được mời tới, nhưng chưa nói rõ công tác. Trong lần họp ấy, các trí thức đồng ý lập Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết theo chủ trương của MTGPMN đề ra. Sau cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân thất bại (1968), MTGPMN bây giờ hết ăn khách, VC lập thêm một tổ chức mới qui tụ các trí thức, nhân sĩ tên tuổi của miền Nam lấy tên Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam. Muốn vậy, họ phải tìm cách mời các trí thức tên tuổi ấy ra bưng: đi đêm có ngày gặp ma. Các trí thức bất mãn, chống chế độ, thậm thụt giao thiệp với VC đã thấu tới tai chánh quyền quốc gia. Nhiều vị bị mời điều tra, hỏi cung, hoặc tạm giam, thẩm vấn. Với chứng cớ đầy đủ, dễ gì họ chối được. Các trí thức bị chính quyền quốc gia thẩm vấn hay tạm giam. gồm các ông kỹ sư Hồ Văn Bửu, luật sư Nguyễn Long, luật sư Ngô Bá Thành (tức Phạm Thị Thanh Vân, con gái bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến, nguyên Tổng Ủy Trưởng Di Cư), luật sư Trịnh Đình Thảo... VC cho người liên lạc, hối thúc các vị ấy "cứ ra bưng, vô vùng giải phóng để được bảo vệ”.

Trong thế “chẳng đặng đừng”, ông Thảo được du kích tới nhà, khiêng đi vào một đêm tối, sau khi đưa ông ra khỏi Sàigòn an toàn.

Trường hợp này cũng giống như việc hòa thượng Thích Đôn Hậu. Trong khi tấn công Huế (1968), Việt Cộng "mời" ông lên núi "họp". Ngài không đi, chúng cho bộ đội thay phiên võng ngài lên núi. (lời giáo sư Lê Văn Hão)

Khi chiến trường miền Nam sôi động, MTGPMN liền gởi các trí thức miền Nam ra Hà Nội, trọ tại nhà khách Trung Ương đảng. Trong lúc gặp nhau đủ mặt, luật sư Trịnh Đình Thảo đã lên tâm sự với giáo sư Lê Văn Hảo rằng:

- Bọn mình chỉ là những hình nộm. Người ta sai làm gì thì làm nấy, chớ chẳng có chút quyền hành gì cả...Lần đó, luật sư Thảo gặp các bà Nguyễn Đình Chi, giáo sư Lê Văn Giáp, ông Nguyễn Đóa, giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (một trong “3 ông hòa bình"), Tôn Thất Dương Tiềm, Nguyễn Thúc Tuân (em ông Nguyễn Thúc Hào (?).. .

Lâm Văn Tết (1896 - 1982):

Là một trí thức, nhân sĩ có uy tín lớn trong hàng trí thức miền Nam, Lâm Văn Tết xuất thân trong một gia đình đại điền chủ tại Bạc Liêu, từng làm trong sở Công Chánh Pháp nhiều thập niên. Từ năm 1943, Lâm Văn Tết bắt đầu hoạt động chống Pháp có khuynh hướng thân Nhựt, rồi lại ủng hộ Việt Minh kháng chiến. Sau đó ông theo Việt Minh một thời gian ngắn, thấy rõ VM không thật tâm yêu nước, chỉ lợi dụng xương máu người dân để họ phục vụ cho quyền lợi của CS, thì bỏ về thành. Dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Lâm Văn Tết bất mãn khi thấy người Mỹ càng ngày càng can thiệp vào nội tình VN. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Lâm Văn Tết được mời làm hội viên Thượng Hội Đồng Quốc Gia (giống như Thượng Viện, nhưng không do dân bầu). Ông được cử làm Phó Chủ Tịch đủ biết uy tín của ông ra sao. Từ năm 1965, cán bộ trí vận móc nối, ông Tết bày tỏ tích cực thái độ chống đối và bất mãn của ông trước việc Mỹ xua quân ồ ạt vào miền Nam. Chiến tranh mỗi ngày một leo thang, Mỹ đưa quân thêm vào, làm cho miền Nam mất chính nghĩa. Từ đó, VC tuyên truyền "đánh Mỹ cứu nước”. Sau Tết Mậu Thân (1968), cụ Lâm Văn Tết được móc nối trốn vô mật khu R, để được “bảo vệ”. Cũng như Trịnh Đình Thảo, ông vì già, sức yếu, đã 72 tuổi, nên được du kích khiêng bằng võng vô khu. Sáu năm sống trong rừng, cụ Tết chỉ làm có mỗi một công việc "cho MTGPMN" "mượn cái tên" để tuyên truyền, phỉnh gạt mọi người. Hàng ngày cụ uống trà, đọc sách báo, học chính trị (mỗi tuần 2 buổi) về đường lối, chính sách và “thế tất thắng” của MTGP. Khi chính phủ lâm thời CHMNVN được thành lập, cụ được gởi ra nước ngoài để tuyên truyền, rồi được qua Đông Đức chữa bịnh.. . Tại mật khu R, VC “gắn” cho cụ nhiều chức vụ rất kêu, nhưng hữu danh vô thực với mục đích lợi dụng tên tuổi cụ để lôi cuốn đồng bào và trí thức ngây thơ như: Phó Chủ tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình. Đến tháng 6 năm 1969, cụ được “gia phong” chức mới để ngồi chơi xơi nước là Ủy Viên Hội Đồng Cố Vấn Chính Phủ, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch. Kể cả ông Nguyễn Hữu Thọ lẫn cụ và các ủy viên trong Hội Đồng cố vấn đều bị VC cố vấn, chớ các cụ cố vấn được ai. Nói cách khác, cụ bị cố vấn thì đúng hơn.

"Liên Minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình", "Hội đồng cố vấn chính phủ", cũng như nhiều tổ chức khác do VC lập nên, chỉ là những tổ chức chính trị, lừa bịp thế gian, chớ không phải "tổ chức chính quyền", vậy các trí thức theo VC chỉ là những tấm bình phong che chắn cho những việc làm gian ác của họ.. Tuy vậy, nhiều người chưa rõ CS, cho rằng các trí thức miền Nam theo MTGP đều "làm lớn lắm".

Nói đến trường hợp các ông chồng trí thức theo VC, bị các bà vợ giựt dây, muốn cho chồng “được làm lớn", chúng tôi xin kể lại trường hợp bác sĩ Phùng Văn Cung và vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng - Vân Trang.

Bác sĩ Phùng Văn Cung cùng với vợ thoát ly theo VC từ ngày VC mới chuẩn bị thành lập MTGP. Xuất thân trong một gia đònh tiểu tư sản, chào đời tại Chợ Lớn và gia đình bên vợ Lê Thoại Chi cũng thuộc hàng giàu lớn, trí thức, nhiều người học cao, đỗ đạt, vô “dân Tây”, bác sĩ Phùng Văn Cung không phải là mẫu người dấn thân, ham hoạt động chính trị. Một người em bà con của bà Phùng có bí danh là Ba Trà, người trực tiếp ra vô Sàigòn Chợ Lớn như ăn cơm bữa. Chính Ba Trà là người móc nối nhiều trí thức bất mãn, đối lập với chính quyền quốc gia từ năm 1957.

Theo lời ông Trương Như Tảng, Bộ Trưởng Tư Pháp trong chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam cho biết: "Nguồn tin của tình báo Mỹ hiểu lầm rằng bác sĩ Phùng Văn Cung là người chủ trương khủng bố."

Sự thật ông chỉ thuộc thành phần bất mãn với chính phủ Ngô Đình Diệm. Trước khi thoát ly, trốn ra mật khu vào đầu năm 1960, bác sĩ Cung phục vụ nhiều năm trong các bịnh viện lục tỉnh. Sau đó ông đổi về là giám đốc một bịnh viện ở Sàigòn. Theo một vài người có quen biết với bác sĩ Phùng Văn Cung thì bác sĩ Cung là người thích hưởng nhàn, tính tình hiền lành. Những ngày cuối tuần rỗi rảnh, ông thường đến nhà, hoặc mời các đồng nghiệp, bạn bè tới nhà đánh bài tứ sắc. Về quan điểm chính trị, bác sĩ Cung là người chủ trương hòa giải hơn cúng rắn, ít thích nghi với cuộc sống kham khổ. Lúc sống trong mật khu, các bạn bè bác sĩ Cung cũng đều cho rằng những điều nhận xét trên là đúng. Nhiều thành viên của bác sĩ Cung như dược sĩ Hồ Thu, Trần Bửu Kiếm.. . đều có cảm tưởng rằng bác sĩ Phùng Văn Cung không thể làm người cách mạng được. Trái lại vợ ông là một người đàn bà nhiều tham vọng, Lê Thoại Chi hoạt động tích cực, lấn lướt và chế ngự ông chồng hiền lành trước mặt bạn bè. Bà Phùng Văn Cung là người có ý chí mạnh mẽ. Tôi được nghe một ủy viên trung ương MTGP quen biết với vợ chồng bác sĩ Phùng Văn Cung xác nhận:

Chính bà Phùng Văn Cung đã thúc đẩy chồng tham gia hoạt động chính trị, trốn ra mật khu theo MTGP t? lúc chuẩn bị thành lập và họ không ngờ rằng MTGP chỉ là chiêu bài do CS miền Bắc dựng lên để có chính nghĩa xâm lăng, chiếm trọn miền Nam. Khi tìm các thành viên để lập chiêu bài MTGP, các cán bộ CS đã tìm hiểu, phân tích uy tín, thái độ chính trị của một số trí thức, nhân sĩ thân Cộng. Vai trò chủ tịch MTGPMN chính VC đã thảo luận trước, không cần tiếp xúc hay hỏi ý kiến của đương sự, rồi “bắt cóc họ”, đưa ra mật khu phong chức hàm. Khi đã chọn xong, họ mời các vị ấy đi họp, rồi bắt cóc luôn vô rừng. Trong một bài trước, chúng tôi có nhắc đến việc VC bí mật lựa chọn người đóng vai chủ tịch MTGPMN giữa các trí thức, nhân sĩ được dân chúng nghe danh, biết tên như dược sĩ Trần Kim Quan, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, giám đốc nhà băng Michel Văn Vĩ.. . sau cùng họ chọn luật sư Nguyễn Hữu Thô, lúc đó đang bị chính quyền quốc gia giam lỏng tại Cũng Sơn, tỉnh Phú Yên. Sau đó họ tổ chức bắt cóc Nguyễn Hữu Thọ, gọi là “giải thoát” Thọ, rồi đem giấu tại một nơi nằm trong rừng sâu, giữa biên giới Nam Kỳ, Miên, Lào, gọi là vùng "Trois frontiers", đợi ngày thành lập MTGPMN (20 - 12 - 60) bầu ông Thọ vào chức chủ tịch. Tuy nhiên, vào ngày đó, ông Thọ về căn cứ MTGP không kịp, nghĩa là không có mặt. Mặt trận đã không có quyền gì, thì chức chủ tịch cũng chỉ là ... hàm mà thôi. Tất cả mọi thành viên trong mặt trận này cũng được lựa chọn từ trước, không hỏi qua ý kiến đương sự. Theo chỉ thị từ Hà Nội, VC dàn cảnh để tổ chức lập “MTGPMN”. Họ mời các trí thức, nhân sĩ “đi họp” rồi dẫn đi luôn vô rừng.

Trở lại việc bà Cung là người tích cực, lấn lướt quyền chồng .. .Trong cái gọi là "Đại hội mừng công” dỏm, tổ chức tại mật khu năm 1964 có một chuyện lừa bịp do chính người được lãnh mề đay, cờ lưu niệm và nhận miếng vải có thêu mấy chữ MTGP để lưu niệm. Người đó là anh Dương Đình Lôi, người Tân An, tập kết ra Bắc, làm thiếu tá huấn luyện viên trường dạy pháo binh ở Sơn Tây, mới xâm nhập miền Nam, chẳng biết ất giáp gì cả.

Nguyên lúc đó là năm 1964, sân bay Biên Hòa bị VC pháo kích, làm hư hại nhẹ 2 chiếc phản lực cơ Skyraiders. Liền sau đó, phi cơ trực thăng vọt lên, phát hiện chỗ đặt súng pháo kích nhờ đốm lửa phát ra, liền xạ kích, hạ sát tất cả mấy tên du kích đó, trong ấy có Huỳnh Thành Đồng làm “tổ trưởng đoàn 69".

Tuy vậy, độ một tháng sau, để tuyên truyền lừa bịp, MTGP tổ chức “đại hội mừng công” tại mật khu, trước sự hiện diện của một số trí thức mới trốn ra, các ủy viên trung ương của Mặt trận. Sau lúc Nguyễn Hữu Thọ đọc diễn văn chào mừng, ca ngợi công trạng láo khoét, tới phiên các chiến sĩ có công lên nhận huy chương. Ông Dương Đình Lôi được gọi lên khán đài, và biết rằng "bị đóng kịch”, phải giả vờ đóng trọn vai người chiến sĩ thi đua, anh dũng lập công. Huỳnh Tấn Phát bước lên khán đài tặng ông Lôi "Huy chương kháng chiến hạng 3". Tới phiên tặng lá cờ kỷ niệm, thì đến bác sĩ Phùng Văn Cung phó chủ tích bước lên khán đài, nhưng bà Cung nhanh chân, giành lên khán đài trước. Bà ôm hôn thắm thiết "chiến sĩ thi đua lập công Dương Đình Lôi", rồi mới trao cờ kỷ niệm. Anh Lôi kể:

- Bà Phùng Văn Cung già ngắt, phấn son thơm phức, nhưng da mặt đã nhăn!

Trong “đại hội mừng công này”, lần đầu tiên có đại tướng Nguyễn Chí Thanh, bí danh Sáu Vi xuất hiện. Ông từ Hà Nội mới vô R bằng phi cơ qua ngả Phnom Penh để nắm tất cả quyền hành. Ông bà Phùng Văn Cung có gởi một đứa con gái ra Hà Nội học tập, vì để nó học trong Nam "sẽ hư con người". Theo ông Lê Tùng Minh, giáo sư Đại Học Tổng Hợp, quê ở Sóc Trăng, tập kết ra Bắc cho biết:

- Cô gái con ông bà Phùng Văn Cung khi ra Bắc được gởi theo học lớp y tá, thay vì bác sĩ như bà Cung muốn. Nhớ lại hồi năm 1960, khi cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm bất thành, một số sĩ quan VNCH, trốn lên Cam Bốt rồi được VC móc nối, trốn vô mật khu, theo VC. Trong số đó có đại úy Phan Lạc Tuyên, thiếu úy Thái Trần Trọng Nghĩa, bút hiệu Thủy Thủ. Phan Lạc Tuyên được MTGP gởi ra Hà Nội làm "tùy viên văn hóa" cho MT, bên cạnh chính phủ HCM. Cô gái con ông bà Cung lấy ông Phan Lạc Tuyên, ăn ở với nhau có một đứa con. Sau năm 1975, ông Tuyên trở về Nam, thôi hẳn người vợ đó. Gia đình ông Tuyên trước năm 1960 cũng đã đổ vỡ. Ông về Sàigon ăn ở với người em dâu, (?) là vợ của người em, bị đi học tập cải tạo.

Cũng trong lần “đại hội mừng công” nầy, bà Nguyễn Thị Định được Nguyễn Chí Thanh (Sáu Vi) phong chức “Tư lệnh phó các lực lượng võ trang miền Nam". Sau đó, Sáu Vi có một buổi họp với một số trí thức Saigon mới ra, và nói một câu dằn mặt, làm cho mọi người thất vọng:

- Quý vị ra đây là để “phục vụ cách mạng”, chớ không phải để được hưởng sự biệt đãi của cách mạng. Nên nhớ, hồi đo, họ chưa dùng các chữ “phục vụ đảng” mà chỉ nói "phục vụ cách mạng". Ai hiểu sao thì hiểu. mấy chữ "đảng CS" còn giấu kín như bưng.

Chúng tôi muốn kể thêm một trường hợp khác về việc "mời họp", rồi cưỡng ép ra mật khu tham gia MTGPMN với chức vụ "ủy viên trung ương" mà họ "gắn” cho. Người đó là ông giáo Nguyễn Văn Ngỡi, quê tại Tam Bình, là một chức sắc trong đạo Cao Đài. Ông Ngỡi là một người hiền lành, có lúc ăn chay trường, được phụ huynh và các học sinh kính trọng. Ông Ngỡi có một người con trai tập kết, tên Nguyễn Hồng Quang. Quang được du học bên Bulgaria và đậu kỹ sư, nhưng lúc về nước, được bổ làm nhân viên sứ quán VC tại Algeria. Biết rõ ông Ngỡi có liên lạc với người con tập kết, VC cho người móc nối, phổ biến tin tức miền Bắc. Họ đã nhắm "chức sắc đạo Cao Đài" của ông Ngỡi, nên vào một đêm tối giữa năm 1960, du kích tới nhà ông ở Tam Bình "mời đi họp”, rồi cưỡng bách, dẫn ông đi theo họ luôn. Khi thành lập MTGPMN, ông Ngỡi được phong chức “ủy viên trung ương". Nhiều người ủy viên trung ương MTGPMN đều ở trong trường hợp đó. (Tôi được nghe chính người con trai của ông là Nguyễn Hồng Quang kể). Cho tới nay, nhiều trí thức miền Nam, trót nghe lời tuyên truyền đường mật của VC, rồi bị họ quyến rũ, thoát ly gia đình, trốn ra mật khu. Tới nơi, những vị nầy được phong các ch?c vụ nghe rất kêu mà hữu danh vô thực. Tới nơi, họ chỉ ngồi chơi xơi nước, biết mình bị lừa, nhưng rất ít người thoát được sự kềm kẹp của họ để trở về. Sau này, nhiều vị cũng thú nhận lầm lỗi của mình là tưởng rằng MTGPMN là tổ chức của những người quốc gia yêu nước, muốn đuổi Mỹ, để đòi chủ quyền và độc lập dân tộc. Lúc mới thành lập MT này, họ công bố chủ truong "độc lập dân tộc, hòa bình và trung lập", không bao giờ để lộ “cái đuôi CS”. Vì lẽ đó, nhiều nhà trí thức, các chủ đồn điền, các cơ sở làm ăn lớn, nhưng không hiểu rõ thực chất của MTGPMN chỉ là công cụ của CS miền Bắc, nên đã bị họ đánh lừa, rồi lợi dụng. Chúng tôi muốn nói đến trường hợp các ông Trịnh Đình Thảo, bác sĩ Phùng Văn Cung, dược sĩ Hồ Thu, kỹ sư Cao Văn Bổn, kỹ sư Tô Văn Cang.

Trong kháng chiến chống Pháp, buổi đầu (1945 - 1950), mặt trận Việt Minh đã lừa bịp được các trí thức bằng cách đặt ra hai đảng Dân Chủ và Xã Hội để lôi cuốn những thành phần nói trên. Trong quá trình kháng chiến, CS luôn ngụy trang, che giấu mục tiêu thật sự của họ. Cán bộ, đảng viên CS núp trong bóng tối để chỉ huy. Tùy thời gian, họ dựng lên những chiêu bài khác nhau, mới nhìn người nào cũng thấy họ có chính nghĩa. Đó là "cái chính nghĩa giai đoạn". Khi nào tình thế thuận lợi, họ trở mặt ngay. Khi CS Trung Quốc chiếm Hoa Lục, nối liền các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa thì ông Hồ theo lịnh của Mao Trạch Đông, tái lập đảng CS mà ông đã giả bộ tự giải tán tháng 11 năm 1945, rồi lập đảng Lao Động vô sản. Nước VN là một bộ phận của cách mạng vô sản toàn thế giới và sẽ đi theo con đường xã hội chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa CS.

Sau hiệp định Genève, CS có âm mưu chiếm miền Nam bằng võ lực, nên gài cán bộ ở lại để phát động cuộc chiến tranh du kích, và cho cán bộ trí vận móc nối với những người kháng chiến cũ để mở đầu phong trào “tranh đấu chính trị trong quần chúng”. Những người đóng vai trò cán bộ trí vận, móc nối với các trí thức miền Nam là ai? Đó là Tạ Bá Tòng, Ba Trà (Trần Văn Paul), Tư Đen.. .

Nhiều trí thức đối lập, sẵn sàng theo Mặt Trận để chống lại chính phủ quốc gia, vô tình họ trở thành những kẻ nối giáo cho giặc mà báo chí miền Nam trước đây gọi những thành phần đó là "ăn cơm quốc gia thờ ma CS".

Trong số những trí thức, khoa bảng miền Nam theo CS có một số người tham vọng quyền lực như luật sư Trịnh Đình Thảo, có nhà riêng như dinh tham biện, nằm trong một vườn xoài rộng lớn, mát mẻ; giáo sư Nguyễn Văn Kiết, từng làm lớn trong Bộ Giáo Dục, được cấp tư gia, có công xa đưa đón; ông bà Phùng Văn Cung.. . chắc chắn không muốn theo CS để rồi tất cả tài sản bị tịch thu...! Họ là những người thuộc giai cấp thượng lưu xã hội, hưởng mọi sự ưu đãi, không bị áp bức, bốc lột thì làm sao theo CS được, nếu không hiểu lầm rằng MTGPMN là của những người quốc gia yêu nước? Nguyên nhân đó cũng là lý do thầm kín, chẳng hạn như các ông nhắm vào chức thủ tướng, bộ trưởng sau này?

Về trường hợp vợ chồng giáo sư Trần Kim Bảng cũng là những người ngây thơ, tin rằng MTGP không phải là CS. Khi họ thành lập "chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam VN" (cũng là chiêu bài mới), bà Vân Trang, vợ giáo sư Bảng có hỏi:

- Tại sao nước ta là nước nông nghiệp, lại không có bộ Canh Nông?

Rõ ràng bà tưởng cái chính phủ ấy thực sự có quyền hành! Nó chỉ là công cụ của CS miền Bắc, để có tư thế tham dự hòa đàm tại Paris.

Ông Trần Kim Bảng, bút hiệu Thiên Giang, vừa là nhà văn, nhà giáo và nhà cách mạng ôn hòa. Ông Thiên Giang là thân phụ của giáo sư địa chất Trần Kim Thạch, dạy tại trường Đại Học Khoa Học Sàigòn. Trần Kim Bảng là người sinh quán tại Quảng Nam, học hết cao đẳng tiểu học Pháp (tức trung học đệ nhất cấp), hoạt động trong nhóm CS đệ tứ như các ông Hồ Hữu Tường, Trần Văn Thạch.. . là kẻ thù không đội trời chung với CS đệ tam, tức phe ông Hồ. Tuy nhiên thời kỳ sau này, CS đệ tam vẫn lợi dụng họ mà không giết như hồi kháng chiến chống Pháp.. .Có lúc ông Bảng bị Pháp bắt giam tại Lao Bảo (Quảng Trị).

Từ năm 1949 - 1952, Trần Kim Bảng sống tại Sàigòn, viết báo, cộng tác với các tờ báo có khuynh hướng xã hội. Trong thời gian đó, ông tiếp tục làm giáo sư địa tại một số tư thục ở Sàigòn. Bà vợ ông, người ta chỉ biết bút hiệu Vân Trang, họ Đào (?), con một gia đình điền chủ ở miền Tây. Ông Trần Kim Bảng có một người em gái, cũng có khiếu văn chương, thường làm thơ, bút hiệu là Hợp Phố.

Trong thập niên 1950, bà Vân Trang vừa là nhà văn chuyên viết các truyện ngắn về phụ nữ trung lưu, tiểu tư sản ở thôn quê miền Nam khá có tiếng tăm. Nữ sĩ Vân Trang là con gái út của gia đình có 4 người con gái, đều thông minh, học giỏi, có tài viết văn, làm thơ và đàn ca.. .

Người chị cả là vợ của học giả Hồ Hữu Tường, quê ở Thường Thạnh, Cái Răng, Cần Thơ hoạt động trong nhóm đệ tứ, nổi tiếng là lý thuyết gia của nhóm. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông Tường là người đệ tứ duy nhứt còn sống sót, thoát khỏi những đợt thanh trừng của phe ông Hồ. Từ năm 1949, ông Tường, cùng với các ông Trịnh Khánh Vàng, Trần Văn Ân, Lê Văn Ngọ, Jean Baptise Đồng.. . đều làm cố vấn cho Bảy Viễn. Năm 1955, ông Tường bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt, kêu án tử hình và đày ở Côn Đảo. Sau khi nhà Ngô bị đảo chánh, ông Tường được trả tự do. Sau đó ông ứng cử dân biểu quốc hội và đắc cử. Sau năm 1975, ông bị VC bắt cải tạo và chết trong tù ở Hàm Tân.

Người chị thứ hai được biết đến qua mấy chữ “Bà Tân Sinh" vì bà có nhà sách "Tân Sinh" ở đường Đinh Tiên Hoàng, Dakao. Có lúc bà Vân Trang đứng trông coi nhà sách phụ với chị. Chồng bà Tân Sinh, cũng là nhà văn, có viết quyển truyện ngắn “Nọc Nạn” kể lại biến cố lớn ở Nam Kỳ năm 1928, trong đó cường hào ác bá (ông chủ H. với Mã Ngân) cấu kết với nhau, cướp đất của nông dân trực tiếp đứng ra khai khẩn, nhưng không biết thủ tục giấy tờ xin hợp thức hóa.

Người kế là nữ sĩ Mộng Trung, đa tài, biết đàn ca, viết văn, làm thơ, là vợ của giáo sư nhạc sĩ Trần Văn Khê.. . Cả hai vợ chồng ông Trần Kim Bảng đều hoạt động chính trị, và bà Vân Trang có nhiều tham vọng, muốn chồng giữ chức vụ quan trọng. Hai vợ chồng thoát ly gia đình, trốn ra mật khu vào năm 1968. Tuy nhiên, trong MTGPMN cũng như cái gọi là "chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam", cả hai ông bà đều không được "gắn" một chức vụ nào cả, trong khi đó, bác sĩ Phùng Văn Cung làm Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Nội Vụ.

Cán Bộ Trí Vận Móc Nối Các Nhà Trí Thức Miền Nam Như Thế Nào?

Trước hết, cán bộ trí vận nhắm vào thành phần kháng chiến cũ, có liên hệ ít nhiều với Việt Minh từ sau năm 1945. Phần lớn những người này đều có cảm tình với MTGPMN. Những cán bộ trí vận (vận động trí thức) mà chúng tôi được biết là Tạ Bá Tòng, Tư Đen, (Nguyễn Thanh Phong) Ba Trà (Trần Văn Paul.. .)

Trước hết chúng tôi xin kể về trường hợp cán bộ trí vận Ba Trà. Ba Trà còn có tên là Trần Văn Danh hay Paul, em ruột của bà Phùng Văn Cung, người sinh trưởng tại Chợ Lớn. Trà theo học chương trình Pháp nhưng dở dang ở bậc đại học, rồi bỏ theo kháng chiến. Tôi xin mượn lời của một ủy viên "Mặt Trận Liên Minh Các Lực Lượng Dân Chủ và Hòa Bình" kể lại những hoạt động của Trà:

"Tôi làm cho.. .tại đồn điền cao su Lai Khê, cách quận Bến Cát chừng 4km. Chỗ này vắng vẻ, ban đêm VC thường lén về đòi tiền, thu thuế và tuyên truyền "cách mạng". Tôi bị họ đến hăm dọa, đòi tiền nhiều lần, và tuyên truyền về đường lối, chính sách của cách mạng. Có lúc tôi đấu lý với chúng, nhưng không thể nào dứt khoát cự tuyệt được.. .Tôi “ủng hộ cách mạng” nhiều lần, mỗi lần một số tiền tượng trưng. Quen mùi thấy bùi, cứ cách vài ba đêm, chúng cử người tới diễn trò cũ: đòi tiền yêu cầu ủng hộ và tuyên truyền rỉ tai.

"Chừng vài tháng sau tôi mới cảm thấy mình dại vì đùa với lửa. Tôi đã đấu lý và làm cho chúng bực bội, hậm hực bỏ đi. Tôi nghĩ trước sau gì tôi cũng bị VC trả thù. Nếu tôi tiếp xúc thường xuyên và ủng hộ cách mạng bằng tiền nhiều lần, trước sau gì, chính quyền quốc gia cũng phát giác, hoặc nghi ngờ, làm khó dễ, khiến tôi thấy cuộc sống bị đe dọa từ nhiều phía. Trong một dịp tình cờ, người bạn tôi, anh kỹ sư Tô Văn Cang giới thiệu một cán bộ VC vừa mới xâm nhập Sàigòn, Gia Định. Tôi sốt sắng làm quen liền vì nghĩ rằng nó sẽ là "cái mộc" để bảo vệ tôi ở Lai Khê khỏi bị VC khủng bố. Người đó là Tư Đen (tên thật là Nguyễn Thanh Phong), từng du học ở Pháp về, không có bằng cấp gì. Sau năm 1975, có lúc hắn làm giám đốc công an thương cảng Sàigòn. Qua sự gặp gỡ với Tư Đen, tôi được quen thêm một cán bộ khác có bí danh Ba Trà. Lúc đó Ba Trà cũng là cán bộ trí vận, hoạt động như thế nào tôi không rõ. Mỗi lần y ghé thăm tôi, nhờ tôi chở đi chỗ này chỗ nọ. Tôi như một người tài xế cho y. Có lần y bắt tôi chở tới gần một địa điểm rồi xuống xe, đi một mình đến chỗ mà y muốn sau khi thấy xe tôi chạy khuất. Một lần tôi đi công chuyện ở Dầu Tiếng, Ba Trà xin quá giang về Núi Cậu... Nhưng khi đến Dầu Tiếng, không thấy người đi đón ở điểm hẹn, nên y phải trở về Sàigòn.. .Sau này tôi mới biết y đi đổi dollars ra tiền Việt Nam Cộng Hòa, để đem về mật khu.

Sau nầy tôi mới biết núi Cậu là mật khu của Ủy Ban MTGPMN khu Sàigòn - Gia Định do khu ủy thường trực là Trần Bạch Đằng nắm giữ. Trần Bạch Đằng tên thật là Trương Gia Triều, bí danh Tư Ánh (tên con gái ông ta). Trong đợt tổng công kích vào Tết Mậu Thân năm 1968, Trần Bạch Đằng làm phó bí thư đảng ủy tiền phương 2, còn bí thứ là Võ Văn Kiệt. Vợ của Trần Bạch Đằng là Nguyễn Thị Chơn (thường được gọi là Dì Năm Chơn), có lúc bị chính quyền quốc gia bắt giam. Trần Bạch Đằng phải tìm cách trao đổi tù binh với Mỹ để cứu bà Chơn. Khi chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam ra đời, bà Chơn được cử làm thứ trường Bộ Tư Pháp. Năm 1969 bà Chơn có tham gia phái đoàn dự hội nghị Paris.

Có một lần Ba Trà biểu tôi chở đi Dầu Tiếng để đón một ông lớn. Khi tới suối ông Hùng, còn cách Dầu Tiếng 10km, gặp du kích chận xe lại. Nhìn mặt, họ biết Ba Trà là người của họ, và bảo tôi trở đầu xe. Lúc đó Trần Bạch Đằng mới xuất hiện, lên xe cùng với Ba Trà trở về Sàigòn. Sau này tôi mới biết Trần Bạch Đằng là thường vụ khu ủy Sàigòn - Gia Định. Trần Bạch Đằng có nhà trọ ở đường Phan Kế Bính, và mua một chiếc xe du lịch Simca 1000, do người nhà là Nguyễn Hải Thọ đứng tên và làm tài xế. Nguyễn Hải Thọ là em vợ của người anh ruột bà Nguyễn Văn Thiệu (bà Mai Anh), giáo sư Pháp Văn ở trường trung học Tân Hiệp (Bến Tranh) tỉnh Định Tường. Hiện nay Thọ làm giám đốc công ty cung ứng xuất khẩu ở Sàigòn (1990).

Trong thời gian giao thiệp với Ba Trà, có lần anh ta nhờ tôi đem tờ tạp chí của VC tựa "Trí Thức Mới" phổ biến trong giới trí thức ở Sàigòn, đặc biệt là đem tới nhà hai ông: Dương Minh Thới, thân phụ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, và Nguyễn Xuân Bái, thân phụ của Nguyễn Xuân Oánh. Tôi nhận mấy tạp chí đem về nhà, nhưng rồi vì lo sợ, đã đốt sạch, không giao và không phổ biến cho ai cả. Tuy nhiên tôi cũng báo cáo với Ba Trà tôi đã tiếp xúc với hai ông trí thức kể trên, và đã cho hai ông biết đường lối sắp tới của MTGPMN sẽ tấn công để cướp chính quyền, để đưa toàn thể miền Nam được độc lập, hòa bình và trung lập như hội nghị Nhân Dân Đông Dương chủ trương theo ý kiến của Tổng Thống De Gaulle. Tôi cũng bịa ra rằng cả hai nhà trí thức ấy rất hài lòng và ước mong cán bộ MTGPMN cứ đến thăm người trí thức ở thương cảng Sàigòn để giới trí thức miền Nam không còn sợ MTGP là CS nữa. Tất nhiên, những điều tôi báo cáo láo với Ba Trà, được anh ta trình về mật khu, về cục R. Vì vậy, sau này Ba Trà được lịnh kết nạp tôi làm cán bộ trí vận của MTGPMN khu Sàigòn - Gia Định, nhưng chỉ là cán bộ trên danh nghĩa, chớ không có giấy tờ gì chứng minh cả.

Cũng từ đó, tôi tưởng rằng mình có thể yên tâm đi làm việc ở các đồn điền cao su hẻo lánh. Nếu bị VC bắt, chắc chắn tôi sẽ được thả liền và không còn nguy hiểm nữa. Tôi ngây thơ tin tưởng như vậy. Sự thật cả hai ông trí thức kể trên đều là những nhà tư sản, giàu có, chưa chắc gì họ sẵn sàng tin và theo MTGP. Tôi thâm thụt đi lại với Ba Trà trong gần 3 năm. Có những dịp tôi được gặp Vương Văn Lễ, Trần Văn Kiểu, Lê Thị Riêng và Đổ Thị Duy Liên.. .

Đi đêm có ngày gặp ma. Ngày 28 tháng 4 năm 1967, ông bạn kỹ sư Tô Văn Cang điện thoại cho tôi:

- Đừng run nghe! Đây là tin giật gân! "Ba Trà đã bị bắt rồi", nhưng anh cũng cố trấn an tôi bằng cách nói thêm:

- Anh Ba Trà có 30 tuổi đảng, sẽ giữ khí tiết và không tiết lộ bí mật. Đừng sợ!

Phía VC, khi hay tin Ba Trà bị bắt, cho người nhắn tin Tô Văn Cang hãy ra vùng giải phóng ngay để được bảo v?. Tuy nhiên, anh Cang không đi. Ngày 30 tháng 4 năm 67, vào lúc 3 giờ sáng, cảnh sát quận 3 đô thành bao vây nhà kỹ sư Cang và lục soát. Vì có chuẩn bị trước, anh Cang trốn trên trần nhà, nên thoát khỏi, chỉ có bà vợ bị bắt mà thôi.

Trường hợp của tôi bị bắt cũng tương tợ. Tôi bị giam giữ tại bót Ngô Quyền, đường An Bình, Chợ Lớn. Vào chỗ tạm giam, tôi còn gặp một số đông người quen biết thì vững bụng là Ba Trà đã khai hết, nên không ai bị đánh đập gì cả và còn hy vọng được chính quyền quốc gia khoan hồng! Sau đó, tôi hỏi vài người quen về trường hợp Ba Trà bị bắt. Thực ra, Ba Trà bị theo dõi từ mấy tháng trước. Khi Ba Trà từ nhà kỹ sư Cao Văn Bổn đi ra, công an chính quyền VNCH xác nhận đúng là VC, chận y lại, rồi bắt đưa lên xe. Tới nơi hỏi cung, Ba Trà thú nhận y là cán bộ trí vận, không chối cãi hay giữ bí mật như mọi người lầm tưởng. Cuối cùng, chính quyền quốc gia cho Ba Trà tự chọn lựa:

-Một là hợp tác với chính quyền quốc gia.

-Hai là chịu tra tấn.

-Ba là chịu thủ tiêu.

Sau một hồi suy nghĩ, Ba Trà đầu hàng, và viết bảng tự khai sự thật 100% với chính quyền quốc gia. Ba Trà phải để hai ngày ròng rã viết lại các hoạt động của y và sự liên hệ của các cán bộ trí vận CS nào liên lạc với các trí thức nào ở Sàigòn, Chợ Lớn, Gia Định. Có một điều là Ba Trà thổi phồng sự thật về địa vị và chức vụ của y cho quan trọng hơn: khai tùm lum, khiến nhiều người chỉ mới tiếp xúc, chưa hoạt động cũng bị bắt như: Trương Như Tảng, giám đốc công ty đường Việt Nam, ông Đinh Xáng, chủ tịch một ngân hàng, Cao Thị Quế tự Đức Anh.. . Ba Trà cộng tác đắc lực với chính quyền quốc gia, nên công an VNCH còn bắt được bà Nguyễn Thị Chơn là vợ của Trần Bạch Đằng, hai khu ủy viên Sàigòn, Gia Định là Trần Văn Kiểu và Lê Thị Riêng. Hai người này không chịu đầu hàng và bị đưa đem bắn trong đêm đầu tiên của cuộc tổng công kích Mậu Thân (1968). Sau khi chiếm được miền Nam, VC lấy tên bà Lê Thị Riêng đặt cho con đường Tôn Thọ Tường, chỗ bán phụ tùng xe đạp và xe Honda trong Chợ Lớn.

Những việc không có liên hệ với y thì Ba Trà không khai như việc tôi và bà Ngô Bá Thành đi thăm các thượng tọa tại chùa Ấn Quang, đi gặp Linh Mục Hoàng Quỳnh. Tất nhiên những lời khai của Ba Trà về tôi thì tôi phải nhận, còn việc tiếp xúc với giáo sư Dương Minh Thới và ông Nguyễn Xuân Bái (mà tôi báo cáo láo) thì phải đối chất với hai ông ấy khi hai ông bị mời tới Tổng Nha CSQG. Đồng thời tôi phải làm giấy xác nhận là tôi đã "báo cáo láo" với Ba Trà, thì hai ông này mới không bị chính quyền quốc gia làm khó dễ.

Dù sao tôi cũng đã tiếp tay, hoạt động cho VC với bằng chứng cụ thể, nên tôi bị giam trong phòng tối 9 tháng và 3 tháng tại Câu Lưu xá Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Dưới thời đệ nhứt Cộng Hòa (1955 - 1963) những trí thức hoạt động cho VC có bằng chứng cụ thể, có thể bị kết án 15 năm tù và bị đày đi Côn Đảo như trường hợp chị dược sĩ Phạm Thị Yến, vợ anh Trần Bửu Kiếm, và giáo sư Nguyễn Văn Chì năm 1960. Chị Yến được ân xá dưới thời cụ Trần Văn Hương. Chị có đến thăm cụ và sau đó được cắp phương tiện đi Phnom Penh đoàn tụ với chồng. Riêng kỹ sư Tô Văn Cang sau đó chính vợ đã khai thật vì bị dọa tịch thu tài sản, nên cũng bị bắt. Cang bị phạt nặng hơn tôi, nhưng cũng được tha cùng một lúc với tôi."

_____
Nam bo da bi dcsvn lua gat va nhuom do nhu the nao ?
Ai vi pham hiep dinh Geneva 54 ?

TRẬN CHIẾN TƯ TƯỞNG VĂN HÓA - Geneve 54



HỨA HOÀNH

Bs Duong Quynh Hoa

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959

Ngày 12/8/2003. Cập nhật lúc 22h 31'

Lời nói đầu

Nước Việt Nam ta là một nước thống nhất từ Lạng Sơn đến Cà Mau.
Dân tộc Việt Nam trải qua mấy nghìn năm lịch sử là một dân tộc lao động cần cù luôn luôn anh dũng đấu tranh xây dựng đất nước và giữ gìn độc lập của Tổ quốc.

Trong hơn 80 năm nước ta bị thực dân Pháp đô hộ và 5 năm bị phát xít Nhật chiếm đóng, nhân dân Việt Nam đã không ngừng đoàn kết đấu tranh chống ách thống trị của bọn xâm lược nước ngoài để giải phóng đất nước.

Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạngViệt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới. Cuộc đấu tranh bền bỉ đầy gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân dân ta chống ách thống trị của đế quốc và phong kiên đá giành được thắng lợi vĩ đại: Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam độc lập trước quốc dân và toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam đã xây dựng một nước Việt Nam độc lập và dân chủ.

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, toàn dân Việt Nam từ Bắc chí Nam đã nhiệt liệt tham gia cuộc tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội. Quốc hội đã thông qua Hiến pháp đầu tiên ghi rõ những thắng lợi to lớn của nhân dân ta, nêu cao ý chí của toàn thể dân tộc kiên quyết giữ gìn nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc, bảo vệ tự do và quyền lợi dân chủ của nhân dân.

Nhưng đế quốc Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức lại gây chiến tranh xâm lược hòng cướp nước ta và bắt nhân dân ta làm nô lệ một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, toàn thể nhân dân ta đoàn kết một lòng đứng lên đánh giặc cứu nước. Đồng thời nhân dân ta đã tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất nhằm đánh đổ giai cấp địa chủ, đem lại ruộng đất cho dân cày. Cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và vô cùng anh dũng của nhân dân Việt Nam, được các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc bị áp bức và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới đồng tình và ủng hộ, đã thắng lợi vẻ vang. Với chiến thắng Điện Biên Phủ, nhân dân Việt Nam đã đánh bại đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954 được ký kết, hoà bình được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta.

Thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam cũng là thắng lợi chung của phong trào giải phóng các dân tộc bị áp bức, của mặt trận hoà bình thế giới và của phe xã hội chủ nghĩa.

Từ khi hoà bình lập lại, ở miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhưng miền Nam còn bị đế quốc và phong kiến thống trị, nước nhà tạm thời còn bị chia làm hai miền.

Cách mạng Việt Nam chuyển sang một hình thể mới. Nhân dân ta cần ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh đề hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

Mấy năm qua, nhân dân ta ở miền Bắc đá thu được nhiều thành tích to lớn trong việc khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá. Hiện nay, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội đang tiến hành thắng lợi. Trong khi ấy, ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bọn tay sai đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân dân ta. Chúng tăng cường binh bị, thực hiện âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa và căn cứ quân sự chuẩn bị chiến tranh của đế quốc Mỹ. Chúng ra sức phá hoại hiệp nghị Giơnevơ, phá hoại hoà bình, phá hoại sự nghiệp thống nhất của nước Việt Nam. Nhưng đồng bào miền Nam luôn luôn anh dũng đấu tranh, không chịu khuất phục. Nhân dân cả nước đoàn kết một lòng, giương cao ngọn cờ hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, kiên quyết tiến lên giành lấy thắng lợi cuối cùng. Sự nghiệp hoà bình thống nhất Tổ quốc nhất định sẽ thành công.

*
* *

Trong giai đoạn mới của cách mạng, Quốc hội ta cần sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.

Hiến pháp mới đã ghi rõ những thắng lợi cách mạng to lớn đã giành được trong thời gian qua và nêu rõ mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta trong giai đoạn mới.

Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Hiến pháp mới quy định chế độ chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta, quan hệ bình đẳng giúp nhau giữa các dân tộc trong nước, bảo đảm đưa miền Bắc nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, xây dựng miền Bắc vững mạnh làm cơ sở cho toàn quốc đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà.

Hiến pháp mới quy định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, nhằm phát huy sức sáng tạo to lớn của nhân dân ta trong công cuộc xây dựng nước nhà, thống nhất và bảo vệ Tổ quốc.

Hiến pháp mới là một Hiến pháp thực sự dân chủ Hiến pháp mới là sức mạnh động viên nhân dân cả nước ta phân khởi tiến lên giành những thắng lợi mới. Nhân dân ta quyết phát huy hơn nữa tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết, chí khí đầu tranh và nhiệt tình lao động. Nhân dân ta quyết tăng cường hơn nữa sự đoàn kết nhất trí với các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ đại, tăng cường đoàn kết với nhân dân các nước á Phi và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nhất định sẽ giành được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà. Nhân dân ta nhất định xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào công cuộc bảo vệ hoà bình ở Đông Nam châu á và thế giới.

Chương I

NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Điều 1

Đất nước Việt Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia cắt.

Điều 2

Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, thành lập và củng cố do thắng lợi mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách mạng tháng Tám vẻ vang và kháng chiến anh dũng, là một nước dân chủ nhân dân.

Điều 3

Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nước thống nhất gồm nhiều dân tộc.

Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có nhiệm vụ gìn giữ và phát triển sự đoàn kết giữa các dân tộc. Mọi hành vi khinh miệt, áp bức, chia rẽ dân tộc đều bị nghiêm cấm.

Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục, tập quán, dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hoá dân tộc của mình.

Những địa phương có dân tộc thiểu số sống tập trung thì có thể thành lập khu vực tự trị. Khu vực tự trị là bộ phận không thể tách rời được của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Nhà nước ra sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hoá chung.

Điều 4

Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan Nhà nước khác đều thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ.

Điều 5

Việc tuyển cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có thể bị cử tri bãi miễn trước khi hết nhiệm kỳ nếu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Điều 6

Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

Tất cả các nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân.

Điều 7

Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị mọi hành động phản quốc, chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc.

Điều 8

Lực lượng vũ trang của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là của nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn và an ninh của Tổ quốc, bảo vệ tự do, hạnh phúc và sự nghiệp lao động hoà bình của nhân dân.

Chương II

CHẾ ĐỘ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI

Điều 9

Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến.

Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

Điều 10

Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.

Nhà nước dựa vào các cơ quan Nhà nước, tổ chức công đoàn, hợp tác xã và các tổ chức khác của nhân dân lao động để xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh tế.

Điều 11

ở nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc.

Điều 12

Kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu của toàn dân, giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được Nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.

Các hầm mỏ, sông ngòi, và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc quyền sở hữu của toàn dân.

Điều 13

Kinh tế hợp tác xã thuộc hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động.

Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ sự phát triển của kinh tế hợp tác xã.

Điều 14

Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân.

Nhà nước ra sức hướng dẫn, giúp đỡ nông dân cải tiến kỹ thuật canh tác, phát triển sản xuất, và khuyến khích nông dân tổ chức hợp tác xã sản xuất, hợp tác xã mua bán và hợp tác xã vay mượn theo nguyên tắc tự nguyện.

Điều 15

Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của những người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác.

Nhà nước ra sức hướng dẫn, giúp đỡ những người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác cải tiến cách làm ăn và khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất và hợp tác xã mua bán theo nguyên tắc tự nguyện.

Điều 16

Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà nước tư sản dân tộc.

Nhà nước ra sức hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh, góp phần phát triển kinh tế quốc dân phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Nhà nước khuyến khích và hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc đi theo con đường cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.

Điều 17

Nhà nước nghiêm cấm việc lợi dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn sinh hoạt kinh tế của xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế Nhà nước.

Điều 18

Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở các thứ vật dụng riêng khác.

Điều 19

Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân.

Điều 20

Chỉ khi nào cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới có trưng mua, hoặc trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đang các tư liệu sản xuất ở thành thị và nông thôn, trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định.

Điều 21

Lao động là cơ sở để phát triển kinh tế quốc dân và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

Lao động là nghĩa vụ và vinh dự của người công dân.

Nhà nước khuyến khích tính sáng tạo và tinh thần tích cực trong lao động của những người lao động chân tay và lao động trí óc.

Chương III

QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

Điều 22

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật

Điều 23

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí và những người bị toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử.

Công dân đang ở trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử.

Điều 24

Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.

Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương.

Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ.

Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.

Điều 25

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.

Điều 26

Công dân nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.

Điều 27

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của toà án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân.

Điều 28

Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà không bị xâm phạm, thư tín được giữ bí mật.

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do cư trú và đi lại.

Điều 29

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những việc khiếu nại và tố cáo phải được xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường.

Điều 30

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền làm việc. Nhà nước dựa vào sự phát triển có kế hoạch của nền kinh tế quốc dân, dần dần mở rộng công việc làm, cải thiện điều kiện lao động và lương bổng, để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó.

Điều 31

Người lao động có quyền nghỉ ngơi. Nhà nước quy định thời giờ làm việc và chế độ nghỉ ngơi của công nhân và viên chức, mở rộng dần những điều kiện vật chất về nghỉ ngơi và an dưỡng, để bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền đó.

Điều 32

Người lao động có quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế để bảo đảm cho người lao động được hưởng quyền đó.

Điều 33

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần các trường học và cơ quan văn hoá, phát triển các hình thức giáo dục bổ túc văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ, tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và nông thôn, để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó.

Điều 34

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật, và tiến hành các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ tính sáng tạo của những công dân theo đuổi sự nghiệp khoa học, văn học, nghệ thuật và các sự nghiệp văn hoá khác.

Điều 35

Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục, thể dục.

Điều 36

Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của Việt kiều.

Điều 37

Những người nước ngoài vì đấu tranh cho tự do, cho chính nghĩa, cho hoà bình và sự nghiệp khoa học mà bị bức hại đều được Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho phép trú ngụ.

Điều 38

Không ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.

Điều 39

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng, và những quy tắc sinh hoạt xã hội.

Điều 40

Tài sản công cộng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng.

Điều 41

Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có nghĩa vụ đóng thuế theo pháp luật.

Điều 42

Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc.

Chương IV

QUỐC HỘI

Điều 43

Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Điều 44

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Điều 45

Nhiệm kỳ của mỗi khoá Quốc hội là bốn năm.

Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ thì phải bầu xong Quốc hội mới.

Thể lệ tuyển cử và số đại biểu Quốc hội do luật định.

Trong trường hợp xảy ra chiến tranh hoặc các trường hợp bất thường khác, Quốc hội có thể quyết định kéo dài nhiệm kỳ của mình và những biên pháp cần thiết để bảo đảm sự hoạt động của Quốc hội và của đại biểu Quốc hội.

Điều 46

Quốc hội mỗi năm họp hai lần, do Uỷ ban thường vụ Quốc hội triệu tập. Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể triệu tập Quốc hội họp bất thường theo quyết định của mình hoặc theo yêu cầu của Hội đồng Chính phủ hay của ít nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải triệu tập Quốc hộp mới chậm nhất là hai tháng sau khi tuyển cử.

Điều 47

Khi Quốc hội họp thì bầu Chủ tịch đoàn để điều khiển cuộc họp.

Điều 48

Các đạo luật và các nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp quy định ở điều 112 của Hiến pháp.

Điều 49

Các đạo luật phải được công bố chậm nhất là mười lăm ngày sau khi Quốc hội đã thông qua.

Điều 50

Quốc hội có những quyền hạn sau đây:

1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp.

2. Làm pháp luật.

3. Giám sát việc thi hành Hiến pháp.

4. Bầu Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

5. Theo đề nghị của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quyết định cử Thủ tướng Chính phủ; theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ quyết định cử Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ.

6. Theo đề nghị của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quyết định cử Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng.

7. Bầu Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

8. Bầu Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

9. Bãi miễn Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Thủ tướng, Phó thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ, Phó Chủ tịch và những thành viên khác của Hội đồng quốc phòng, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

10. Quyết định kế hoạch kinh tế Nhà nước.

11. Xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách của Nhà nước.

12. ấn định các thứ thuế.

13. Phê chuẩn việc thành lập và bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ.

14. Phê chuẩn việc phân vạch địa giới các tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc trung ương.

15. Quyết định đại xá.

16. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình.

17. Những quyền hạn cần thiết khác do Quốc hội định.

Điều 51

Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra.

Uỷ ban thường vụ gồm có:

- Chủ tịch,

- Các Phó Chủ tịch,

- Tổng thư ký,

- Các uỷ viên.

Điều 52

Uỷ ban thường vụ Quốc hội chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Quốc hội có quyền bãi miễn các thành viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Điều 53

Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những quyền hạn sau đây:

1. Tuyên bố và chủ trì việc tuyển cử đại biểu Quốc hội.
2. Triệu tập Quốc hội.
3. Giải thích pháp luật.
4. Ra pháp lệnh.
5. Quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân.
6. Giám sát công tác của Hội đồng Chính phủ, của Toà án nhân dân tối cao và của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
7. Sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị định, nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ trái với Hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh; sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, và giải tán các Hội đồng nhân dân nói trên trong trường hợp các Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân một cách nghiêm trọng.
8. Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ.
9. Bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
10. Bổ nhiệm hoặc bãi miễn Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
11. Quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi miễn các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ở nước Việt Nam.
12. Quyết định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước ký với nước ngoài, trừ trường hợp mà Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét cần phải trình Quốc hội quyết định.
13. Quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao và những hàm và cấp khác.
14. Quyết định đặc xá.
15. Quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước.
16. Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp nước nhà bị xâm lược.
17. Quyết định việc tổng động viện hoặc động viên cục bộ.
18. Quyết định việc giới nghiêm trong toàn quốc hoặc từng địa phương.

Ngoài những quyền hạn trên, Quốc hội có thể trao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội những quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết.

Điều 54

Những nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được quá nửa tổng số uỷ viên biểu quyết tán thành.

Điều 55

Uỷ ban thường vụ Quốc hội làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội mới bầu xong Uỷ ban thường vụ mới.

Điều 56

Quốc hội bầu ra Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu của đại biểu Quốc hội. Quốc hội căn cứ vào báo cáo của Uỷ ban thẩm tra mà quyết định xác nhận tư cách đại biểu của đại biểu Quốc hội.

Điều 57

Quốc hội thành lập Uỷ ban dự án pháp luật, Uỷ ban kế hoạch và ngân sách, và những uỷ ban khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Điều 58

Nếu Quốc hội nhận thấy cần thiết, và trong thời gian Quốc hội không họp, nếu Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhận thấy cần thiết, thì có thể tổ chức các Uỷ ban điều tra về những vấn đề nhất định. Trong khi Uỷ ban điều tra làm việc, các cơ quan Nhà nước, đoàn thể nhân dân và công dân có nhiệm vụ cung cấp tài liệu cần thiết cho Uỷ ban điều tra.

Điều 59

Các đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ.

Cơ quan bị chất vấn phải trả lời trong thời hạn năm ngày; trường hợp cần phải điều tra thì thời hạn trả lời là một tháng.

Điều 60

Nếu không có sự đồng sy của Quốc hội, và trong thời hạn Quốc hội không họp, nếu không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam và truy tố đại biểu Quốc hội.

Chương V

CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Điều 61

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là người thay mặt cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về mặt đối nội và đối ngoại.

Điều 62

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà bầu ra. Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ ba mươi lăm tuổi trở lên có quyền ứng cử Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà theo nhiệm kỳ của Quốc hội.

Điều 63

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng, và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; bổ nhiệm, bãi miễn Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quốc phòng; công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá; tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố lệnh tổng động viên hoặc đọng viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm.

Điều 64

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiếp nhận đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài cử đến; căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà phê chuẩn hiệp ước ký với nước ngoài, cử và triệu hồi đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ở nước ngoài.

Điều 65

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức, vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng.

Điều 66

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ toạ xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ.

Điều 67

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ Hội nghị chính trị đặc biệt.

Hội nghị chính trị đặc biệt gồm có Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và những người hữu quan khác.

Hội nghị chính trị đặc biệt xét những vẫn đề lớn của nước nhà. Những ý kiến của Hội nghị chính trị đặc biệt do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chuyển đến Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Chính phủ hoặc các cơ quan hữu quan khác để thảo luận và ra quyết định.

Điều 68

Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà giúp Chủ tịch làm nhiệm vụ, có thể được Chủ tịch quỷ nhiệm thay thế Chủ tịch trong từng bộ phận chức quyền.

Việc tuyển cử và nhiệm kỳ của Phó Chủ tịch quy định như việc tuyển cử và nhiệm kỳ của Chủ tịch.

Điều 69

Chủ tịch và Phó Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà làm nhiệm vụ cho đến khi Chủ tịch mới và Phó Chủ tịch mới nhận chức.

Điều 70

Khi Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vì tình hình sức khoẻ mà không làm việc được trong một thời gian dài thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch.

Khi Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khuyết thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi bầu xong Chủ tịch mới.

Chương VI

HỘI ĐỒNG CHIÍNH PHỦ

Điều 71

Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Hội đồng Chính phủ trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Điều 72

Hội đồng Chính phủ gồm có:

- Thủ tướng,

- Các Phó thủ tướng,

- Các Bộ trưởng,

- Các Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước,

- Tổng giám đốc ngân hàng Nhà nước

Tổ chức của Hội đồng Chính phủ do luật định.

Điều 73

Hội đồng Chính phủ căn cứ vào Hiến pháp, pháp luật và pháp lệnh mà quy định những biện pháp hành chính, ban bố những nghị đinh, nghị quyết, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những nghị định, nghị quyết và chỉ thị ấy.

Điều 74

Hội đồng chính phủ có những quyền hạn sau đây:

1. Trình dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác ra trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

2. Thống nhất lãnh đạo công tác của các Bộ và các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ.

3. Thống nhất lãnh đạo công tác của Uỷ ban hành chính các cấp.

4. Sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của các Bộ, các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ; sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của Uỷ ban hành chính các cấp.

5. Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của hội đồng nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết ấy.

6. Chấp hành kế hoạch kinh tế và ngân sách Nhà nước.

7. Quản lý nội thương và ngoại thương.

8. Quản lý công tác văn hoá, xã hội.

9. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, duy trì trật tự công cộng, bảo hộ quyền lợi của công dân.

10. Lãnh đạo việc xây dựng lực lượng vũ trang của Nhà nước.

11. Quản lý công tác đối ngoại.

12. Quản lý công tác dân tộc.

13. Phê chuẩn sự phân vạch địa giới của các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh.

14. Thi hành lệnh động viên, lệnh giới nghiêm và mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ đất nước.

15. Bổ nhiệm và bãi miễn các nhân viên cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Ngoài những quyền hạn trên, Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể trao cho Hội đồng Chính phủ những quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết.

Điều 75

Thủ tướng Chính phủ chủ toạ Hội đồng Chính phủ và lãnh đạo công tác của Hội đồng Chính phủ. Các Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng, có thể được uỷ nhiệm thay Thủ tướng khi Thủ tướng vắng mặt.

Điều 76

Các Bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ lãnh đạo công tác của ngành mình dưới sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ.

Trong phạm vi quyền hạn của mình, trên cơ sở và để thi hành pháp luật và các nghị định, nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ, các Bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ ra những thông tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các thông tư chỉ thị ấy.

Điều 77

Trong khi thi hành chức vụ, các thành viên của Hội đồng Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi trái với Hiến pháp và pháp luật gây thiệt hại cho Nhà nước hay là cho nhân dân.


Chương VII

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH ĐỊA PHƯƠNG CÁC CẤP

Điều 78

Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà phân định như sau:

Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương;

Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã;

Huyện chia thành xã, thị trấn.

Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định.

Điều 79

Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.

Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính theo quyết định của Hội đồng Chính phủ.

Điều 80

Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.

Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương.

Điều 81

Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương là ba năm.

Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân huyện, thành phố, thị xã, xã, thị trấn, khu phố là hai năm.

Nhiệm kỳ của mỗi khoá Hội đồng nhân dân các cấp trong khu vực tự trị do luật định.

Thể lệ tuyển cử và số đại biểu của Hội đồng nhân dân các cấp do luật định.

Điều 82

Hội đồng nhân dân bảo đảm sự tôn trọng và chấp hành pháp luật của Nhà nước ở địa phương; đặt kế hoạch xây dựng kinh tế, văn hoá và những sự nghiệp lợi ích công cộng ở địa phương; xét duyệt và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách của địa phương; duy trì trật tự và an ninh ở địa phương, bảo vệ tài sản công cộng, bảo hộ quyền lợi của công dân, bảo đảm quyền bình đẳng của các dân tộc.

Điều 83

Căn cứ vào pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên, Hội đồng nhân dân ra những nghị quyết thi hành ở địa phương.

Điều 84

Hội đồng nhân dân bầu ra Uỷ ban hành chính và có quyền bãi miễn các thành viên của Uỷ ban hành chính.

Hội đồng nhân dân bầu và bãi miễn Chánh án Toà án nhân dân cấp mình.

Điều 85

Hội đồng nhân dân có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của Uỷ ban hành chính cấp mình; có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và những quyết định không thích đáng của Uỷ ban hành chính cấp dưới trực tiếp.

Điều 86

Hội đồng nhân dân các cấp có quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi Hội đồng nhân dân này làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân một cách nghiêm trọng. Nghị quyết giải tán phải được Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn trước khi thi hành. Nghị quyết giải tán của Hội đồng nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương phải được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn trước khi thi hành.

Điều 87

Uỷ ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương, là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa phương.

Điều 88

Uỷ ban hành chính gồm có Chủ tịch, một hoặc nhiều Phó Chủ tịch, uỷ viên Thư ký và các uỷ viên. Nhiệm kỳ của Uỷ ban hành chính theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân đã bầu ra mình.

Khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ hoặc bị giải tán, Uỷ ban hành chính tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân mới bầu ra Uỷ ban hành chính mới.

Tổ chức của Uỷ ban hành chính các cấp do luật định.

Điều 89

Uỷ ban hành chính các cấp quản lý công tác hành chính của địa phương, chấp hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp mình và nghị quyết, mệnh lệnh của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên.

Uỷ ban hành chính các cấp chiếu theo quyền hạn do luật định mà ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những quyết định, chỉ thị ấy.

Điều 90

Uỷ ban hành chính các cấp lãnh đạo công tác của các ngành thuộc quyền mình và của các Uỷ ban hành chính cấp dưới.

Uỷ ban hành chính các cấp có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định không thích đáng của các ngành công tác thuộc quyền mình và của Uỷ ban hành chính cấp dưới.

Uỷ ban hành chính các cấp có quyền đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp mình sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết ấy.

Điều 91

Uỷ ban hành chính các cấp chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cấp mình và trước cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp.

Uỷ ban hành chính các cấp chịu sự lãnh đạo của Uỷ ban hành chính cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Chính phủ. Hội đồng nhân dân Và Uỷ ban hành chính ở các khu vực tự trị.

Điều 92

Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính ở các khu vực tự trị phải căn cứ vào những nguyên tắc cơ bản về tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp quy định ở trên.

Điều 93

Trong những khu vực tự trị có nhiều dân tộc sống xen lẫn, Hội đồng nhân dân sẽ có số đại biểu thích đáng của các dân tộc.

Điều 94

Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các khu vực tự trị chiếu theo phạm vi quyền hạn tự trị do pháp luật quy định mà đặt kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá thích hợp với tình hình địa phương, quản lý tài chính, tổ chức các lực lượng dân quân tự vệ và công an của địa phương.

Điều 95

Trong phạm vi quyền hạn tự trị, Hội đồng nhân dân các khu vực tự trị có thể chiếu theo những đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá của các dân tộc ở địa phương mà đặt ra điều lệ tự trị và những điều lệ về những vấn đề riêng biệt để thi hành ở địa phương sau khi đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.

Điều 96

Cơ quan Nhà nước cấp trên phải bảo đảm cho Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các khu vực tự trị sử dụng quyền tự trị và giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến hành thuận lợi việc xây dựng chính trị, kinh tế và văn hoá của mình.

Chương VIII

TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN, TOÀ ÁN NHÂN DÂN

Điều 97

Toà án nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập toà án đặc biệt.

Điều 98

Các Toà án nhân dân thực hành chế độ Thẩm phán bầu theo quy định của pháp luật.

Nhiệm kỳ của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là năm năm.

Tổ chức của các Toà án nhân dân do luật định.

Điều 99

Việc xét xử ở các Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.

Điều 100

Khi xét xử, Toà án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Điều 101

Việc xét xử tại các Toà án nhân dân đều công khai, trừ những trường hợp đặc biệt do luật định.

Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm.

Điều 102

Toà án nhân dân bảo đảm cho công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thuộc các dân tộc thiểu số có thể dùng tiếng nói và chữ viết của mình trước toà án.

Điều 103

Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự và Toà án đặc biệt.

Điều 104

Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Các Toà án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân địa phương. VIệN KIểM SáT NHÂN DÂN

Điều 105

Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân.

Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định.

Điều 106

Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là năm năm.

Tổ chức của các Viện kiểm sát nhân dân do luật định.

Điều 107

Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Điều 108

Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Chương IX

QUỐC KỲ - QUỐC HUY - THỦ ĐÔ

Điều 109

Quốc kỳ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.

Điều 110

Quốc huy nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng cưa và dòng chữ: Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Điều 111

Thủ đô nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là Hà Nội.

Chương X

SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP

Điều 112

Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

(hết)