Bách Việt Tiên Hiền Chí
Giới Thiệu
"Bách Việt Tiên Hiền Chí" là một tác phẩm quan trọng cho những ai muốn tìm hiểu về nguồn gốc của chủng tộc Bách Việt ngày xưa.
Theo bộ đại từ điển Từ Hải Hợp đính, gọi tắt là Từ Hải, viết bằng lối chữ phồn thể, xuất bản tháng 3 năm 1947 (tái bản tháng 2 năm 2003) thì:
"Bách Việt (chữ Việt bộ Tẩu), tên của chủng tộc, cũng viết là Bách Việt (chữ Việt bộ Mễ). Theo sách Thông Khảo Dư Địa Khảo Cổ Nam Việt: Từ Ngũ Lĩnh về phía Nam, cùng thời với Đường, Ngu, Tam Đại, là nước của Man Di, ấy là đất của Bách Việt.”
Từ Hải còn ghi chú them: "Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy, tám nghìn dặm, Bách Việt sống lẫn lộn với các dân tộc khác, nhưng luôn luông giữ cá tính của dân tộc(Bách Việt tạp cư, các hữu chủng tính).
Xem như vậy, Bách Việt , từ núi Ngũ lĩnh đổ xuống phương Nam, vừa là nước, vừa là sắc dân, sự hiện diện đã được ghi nhận, từ thời thượng cổ Đường ( vua Nghiêu), Ngu ( vua Thuấn), Tam Đại ( Hạ, Thương, Chu). Và, người Bách Việt có cá tính riêng và luôn luôn giữ cá tính nầy. Đúng với sự khẳng định của Nguyễn Trãi, trong bài Bình Ngô Đại Cáo:
Sơn xuyên chi phong vực ký thù
Nam Bắc chi phong tục diệc dị
(Sơn hà cương vực đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trần Trọng Kim – Bùi Kỷ dịch)
"Bách Việt Tiên Hiền Chí", như tựa đề, là một công trình sưu tập, nghiên cứu, ghi lại một cách công phu hành trạng, công nghiệp, ngôn từ, tư tưởng của các danh nhân người Bách Việt , trải qua nhiều triều đại của Trung Hoa. Những danh nhân này, với phong cách cao quý, tài năng vượt bực, tư tưởng cao siêu, đã là thành phần nồng cốt xây dựng nên nền văn minh, mà ngày nay, thế giới gọi là văn minh Trung Hoa.
Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam đã sưu tập được hai bộ “Bách Việt Tiên Hiền Chí".
Một bản in năm Tân Mão (1831), đời Thanh, chữ lớn, khắc đẹp, nơi tên tác giả đề là Thuận Đức Âu Đại Nhậm (ông Âu Đại Nhậm, người ở Thuận Đức).
Bản thứ hai, in vào năm Dân Quốc thứ hai mươi sáu (1936), chữ nhỏ, bản khắc có nhiều chữ không rõ, nơi tên tác giả đề là Minh Thuận Đức Âu Đại Nhậm Trinh Bá soạn (soạn bởi ông Âu Đại Nhậm, tự là Trinh Bá, người ở Thuận Đức, đời nhà Minh).
Như vậy, tác giả của sách là Âu Đại Nhậm.
Theo Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu, Âu Đại Nhậm, tên chữ là Trinh Bá, người huyện Thuận Đức, tỉnh Quảng Đông, làm quan đời Gia Tĩnh, triều Minh, đã từng giữ những chức vụ huấn đạo Giang Tô, đổi làm học chánh Quang Châu, rồi về triều làm bác sĩ Quốc Tử Giám, chúc vụ sau cùng của ông là hộ bộ lang trung ở Nam Kinh.
Phần lớn cuộc đời làm quan của ông là ở đất Bách Việt cũ, nên ông có nhiều cơ hội tìm hiểu, sưu tập những chứng tích về tiên hiền Bách Việt.
Vả chăng, Âu Đại Nhậm, gốc tích từ Thuận Đức, Quãng Đông, cũng là người thuộc gốc Bách Việt.
Thuận Đức là một huyện thuộc Quảng Đông, phía Đông Nam huyện Nam Hải, gần giáp Giang Tây, chạy ra tới biển. Tên huyện được đạt thời nhà Minh, tiếp tục giữ dưới thời nhà Thanh. Đến đời vua Quang Tự nhà Thanh, Thuận Đức được mở rộng thành một hải cảng lớn, nỗi tiếng là nơi sản xuất và xuất cảng tơ, lụa, vân, sa…
(Xin đừng lầm với phủ Thuận Đức thuộc tỉnh Trực lệ. Phủ nầy được lập vào đời nhà Tống, vào thời Kim, Nguyên đổi thành bộ, đến đời Minh đổi lại là phủ. Nhà Thanh vẫn giữ nguyên theo nhà Minh. Đến thời Dân Quốc, tên Thuận Đức bị bãi bỏ.
Như vậy, bộ "Bách Việt Tiên Hiền Chí" được viết bởi một người gốc Bách Việt, từng làm quan nhiều năm ở đất Bách Việt cũ, viết về tiên hiền Bách Việt. Tóm tắt, đây là bộ sách của người Bách Việt viết về tiền nhân Bách Việt.
Nhận thấy tầm quan trọng của bộ "Bách Việt Tiên Hiền Chí", đối với dân tộc Việt Nam (là một trong Bách Việt), nhất là trong giai đoạn nầy, giai đoạn mà Việt tộc đang phải chống chọi với những cuộc xâm lăng văn hóa từ nhiều phía, Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam đã đề nghị giáo sư Trần Lam Giang phiên dịch bộ sách nầy ra Việt ngữ và giáo sư đã mau mắn nhận lời, coi đây là một công tác mà an hem giao phó, để giúp cho các thế hệ trẻ có them tài liệu xác tín khi tìm hiểu về qu1a khứ của dân tộc.
Người xưa có câu "chu tầm chu, mã tầm mã", nghĩa là "những người sống trên thuyền thì tìm đến và sống với những người sống trên thuyền; giống dân sống trên lưng ngựa thì tìm đến và sống với giống dân sống trên lưng ngựa." Câu nầy phân biệt rõ rang sự khác nhau giữa hai chủng tộc, Việt ở phương Nam và Tàu ở phương Bắc; giữa giống dân sống định cư, làm ruộng trên vùng song nước và giống dân sống du mục trên lưng ngựa, khác nhau từ nếp sống, phong tục tạp quán đến văn hóa.
Trong kinh thi, với thiên Chu Nam và Thiệu Nam, Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực rỡ của phương Nam và vị vạn thế sư biểu của Bắc tộc đã học hỏi rất nhiều ở nền văn minh nầy, đem áp dụng và đặt ra những quy luật xã hội cho các giống dân phương Bắc…
Trong kinh Xuân Thu, Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp cha giết con, cha cướp vợ của con, con cướp vợ của cha, an hem dâm loạn với nhau, bề tôi giết chúa, trong giới vua chúa quý tộc Trung Hoa. Điều nầy, chứng tỏ rằng, trong khi Bách Việt ở phương Nam đã đi vào đời sống nề nếp của văn minh nông nghiệp, thì Bắc tộc Trung Hoa vẫn còn dã man với nếp sống du mục.
Khổng Tử đã đem những gì nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền văn minh Bách Việt phương Nam, đạt để thành những quy luật, trật tự xã hội cho phương Bắc. Bởi vậy, ông mới xác định công việc của ông là "thuật nhi bất tác"
Trải qua các triều đại Tần, Hán, Đường, Tống, Bắc tộc Trung Hoa đã xâm lăng, thôn tính được d8a61t đai Bách Việt, nhưng ngược lại đã bị nền văn minh Bách Việt đồng hóa.
Hởi ơi, Bách Việt ngày nay còn lại những dòng tộc nào? Có còn chăng là Việt Văn Lang trên mảnh đất hình chữ S ven bờ Đông Hải. Lịch sử của Việt Văn Lang là chống chọi triền mien với các cuộc xâm lược của Bắc tộc, để gìn giữ nền độc lập, tự chủ cho mảnh đất cuối cùng của Bách Việt ở cõi trời Nam.
Ngày nay, người Đài Loan xác định nguồn gốc Bách Việt của họ, gồm Điền Việt từ Vân Nam, Việt Đông từ Quảng Đông, Quảng Tây và Mân Việt từ Phúc Kiến, Chiết Giang, với mục đích muốn tuyên bố độc lập cho đảo quốc nầy.
Cũng ngày nay, do các công trình khảo cổ, nghiên cứu chủng tộc, người ta xác định dân tộc Nhật Bổn vốn phát xuất từ Việt Đông.
Việt Văn Lang không cần xác định gì hết về nguồn gốc, vì từ ngàn xưa, vẫn vững chân trên lãnh thổ của mình. Chẳng những vậy, Việt Văn Lang còn "cầm búa đ khai phá phương Nam” (đúng theo ý chí của tiền nhân khi dung bộ “tẩu” viết nên chữ Việt), để mở rộng cơ đồ xuống tận mũi Cà Mau…
Đọc "Bách Việt Tiên Hiền Chí" để hiểu rõ sự khác biệt giữa văn hóa Bách Việt và văn hóa Bắc tộc Trung Hoa; để phân biệt đâu là văn minh Bách Việt trong nền văn minh mà thế giới ngày nay gọi là văn minh Trung Hoa.
Trung Tâm Nghiên Cứu Văn Hóa Việt Nam trân trọng giới thiệu tác phẩm nầy.
Little Sàigòn, ngày 17 tháng 6 năm 2006
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VĂN HÓA VIỆT NAM
MỤC LỤC
- Giới thiệu 9
- Lời nói đầu 15
QUYỂN I
1- TỰA ĐỀ BÁCH VIỆT TIÊN HIỀN CHÍ 23
2- ÂU DÃ TỬ 35
3- THÙ VÔ DƯ và ÂU DƯƠNG 39
4- ĐẠI PHU CHỦNG 41
5- KẾ NGHÊ 47
6- PHẠM LÃI 53
7- TIẾT CHÚC 57
8- TRẦN ÂM 61
9- CHƯ KÊ DĨNH 65
10- CAO CỐ 73
11- SỬ LỘC 75
12- MAI QUYÊN 77
13- CÔNG SƯ NGUNG 81
14- TRƯƠNG MÃI 83
15- TRỊNH NGHIÊM 87
16- HÀ DI 89
17- TẤT THỦ 91
18- ĐÔ KÊ 95
19- NGHIÊM TRỢ 97
20- CHU MÃI THẦN 103
21- ĐẶNG MẬT 107
22- TÔN BÁO 109
23- NGÔ BÁ 111
24- TRỊNH CÁT 113
25- HÀ ĐAN 115
26- MAI PHÚC 117
QUYỂN II
1- NGHIÊM QUANG 125
2- TRẦN NGUYÊN 129
3- TRẦM PHONG 141
4- CỐ PHỤNG 143
5- TRẦN HIÊU 147
6- TRỊNH HOÀNH 149
7- THÁI LUÂN 153
8- VƯƠNG SUNG 157
9- DƯƠNG PHU 159
10- TRƯƠNG TRỌNG 171
11- DƯƠNG PHÙ 173
12- DƯỠNG PHẤN 177
13- BAO HÀM 179
14- ĐẶNG THỊNH 183
15- CHUNG LY Ý 187
16- HỨA KINH 195
17- CHIÊU MÃNH 199
18- KỲ MẪU TUÂN 203
19-TRẦN LÂM 207
20- LÝ TIẾN 211
21- LONG KHÂU TRƯỜNG 217
QUYỂN III
1- TỪ HỦ 223
2- ĐẠM ĐÀI KÍNH BÁ 225
3- LƯU HY 229
4- MẠNH THƯỜNG 231
5- HOÀNG XƯƠNG 235
6- BÀNH TU 241
7- NGỤY LÃNG 245
8- TỪ TRƯNG 251
9- THÂN SÓC 255
10- TRƯƠNG VŨ 257
11- LỤC TỤC 259
12- ĐÁI TỰU 265
13- ĐƯỜNG TRÂN 269
14- CHU TUẤN 273
15- TẠ DI NGÔ 281
16- HẠ THUẦN 297
17- ĐỔNG CHÍNH 299
18- SƠ NGUYÊN 305
19- TRIỆU DIỆP 309
20- HÀN THUYẾT 311
QUYỂN IV
1- LA UY 315
2- ĐƯỜNG TỤNG 321
3- ĐỐN KỲ 325
4- ĐINH MẬT 327
5- NHAN Ô 329
6- PHẤT PHIẾM 331
7- TỪ TRĨ 335
8- QUÁCH THƯƠNG 347
9- DIÊU TUẤN 359
10- ĐỔNG PHỤNG 363
11- NGU QUỐC 367
12- ĐỔNG ẢM 369
13- HOÀNG HÀO 371
14- ĐINH MẬU 375
15- DOÃN NHA 377
16- TỪ ĐĂNG 379
17- THỊNH HIẾN 383
18- TRẦM DU 391
19- DIÊU VĂN THỨC 393
20- NGÔ ĐĂNG 399
21- HÀNH NGHỊ 403
22- SỸ NHIẾP 409
23- NGU PHIÊN 419
24- LÝ TỔ NHÂN 429
25- VƯƠNG PHẠM 431
26- HOÀNG THƯ 433
27- ĐÀO DIÊN 437
28- TRƯƠNG PHƯỜNG 439
29- DIÊU THÀNH PHỤ 441
30- HOÀNG CUNG 447
31- TẨY KINH 449
32- NGUYỄN KHIÊM CHI 453
33- LIÊU XUNG 455
34- PHÙNG DUNG 459
35- VI THIÊN ĐẠO 463
36- MẠC TUYÊN KHANH 465
37- DƯƠNG HOÀNG 467
38- LỜI BẠT 471
39- NHỮNG SÁCH ĐÃ TRA CỨU ĐỂ VIẾt PHẦN CHÚ THÍCH
BẢN CHỤP
NGUYÊN TÁC BẰNG CHỬ NHO
(từ trang 477 đến trang 595)
Xin trực tiếp lien lạc về:
THƯ VIỆN VIỆT NAM giữ bản quyền
10872 Westminster Avenue, suite 214 & 215
Garden Grove, California 92843, USA
Post Office Box 2051
Little Sàigòn Westminster, California 92684, USA
-----
Con Đường Cách Mạng (pdf)
______________
Về Tệ Sùng Bái Cá Nhân và Những Hậu Quả của Nó (52 trang)
Hồi ức và Suy nghĩ - Trần Quang Cơ (Mạng Lưới Dân Chủ Việt Nam)
Hồi ức và Suy nghĩ (pdf)
http://www.vietdemocracynetwork.net/thamkhao/
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire