Giá Trị Pháp Lý và Tính Chính Thống Của Hiến Pháp Việt Nam Hiện Nay Từ Cơ Sở Pháp Lý Của Hiến Pháp 1946
Luật Sư Nguyễn Xuân Phước
nxpesq@gmail.com
I. Những Ý Niệm Căn Bản Về Hiến Pháp
Hiến pháp là bộ luật tối cao của một quốc gia định nguyên tắc tổ chức guồng máy công quyền để thực hiện mục đích xây dựng một xã hội trong đó dân làm chủ đất nước nhằm bảo đảm dân quyền và nhân quyền của công dân, và đồng thời bảo đảm tính chất ổn định, chính thống và hợp pháp của nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền nào không thực thi hiến pháp, phản bội các điều khoản của hiến pháp, nhà cầm quyền ấy tự mình chấm dứt giá trị pháp lý và tính chính thống về giá trị quyền lực lãnh đạo quốc dân. 1
Để xác định quyền làm chủ đất nưóc của nhân dân, hiến pháp luôn luôn phải được toàn thể nhân dân chấp thuận và mọi sự thay đổi hiến pháp phải luôn luôn được toàn thể nhân dân quyết định bằng lá phiếu. Hiến pháp gọi đó là quyền phúc quyết. Quyền phúc quyết cộng với các quyền tự do ứng cử và bầu cử, quyền bình đẳng cơ hội về quyền lợi và nghĩa vụ kính tế chính trị văn hoá, và các quyền công dân khác xác định nhân dân là chủ nhân ông của đất nước. Khi nhân dân được phúc quyết hiến pháp hay đưọc tự do ứng cử và bầu cử đó là lúc họ thực sự hành sử quyền làm chủ đất nước của mình.
II. Sự Ra Đời Của Hiến Pháp 1946
Năm 1946, Quốc Hội dân cử đầu tiên đã được bầu lên bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu đầu tiên của đất nước ta. Sau đó quốc hội được bổ xung thêm các dân biểu là những nhân sĩ và các nhà cách mạng chống Pháp không Cộng Sản. Quốc hội đầu tiên nầy tập hợp được nhiều thành phần xã hội và đảng phái chính trị có những xu hưóng khác nhau. Ngoài các nhà cách mạng tả phái mà đại diện là các ông Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, có sự tham dự của các nhà cách mạng tiên khởi thời Phan Bội Châu như cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng với các nhà cách mạng hữu phái như các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Trần Trung Dung vv... [2] [3] [4] [10].
Sau đó, Quốc Hội đã bầu ra một Ủy Ban Dự Thảo Hiến Pháp đã gồm 11 người, thuộc mọi thành phần, là đại biểu của các tổ chức, đảng phái chính trị và các tầng lớp nhân dân khác nhau do ông Hồ Chí Minh chủ trì.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc Hội Việt nam đã thông qua hiến pháp đầu tiên cho một nước Việt Nam độc lập.
Về phần nội dung, Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền căn bản của công dân trong đó có quyền bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa (điều 6), quyền bình đảng trước pháp luật (điều 7), quyền tự do ứng cử và bầu cử (điều 18), nhân dân có quyền phúc quyết về hiến pháp (điều 21). Hiến pháp 1946 còn đi xa hơn bằng cách cho phép những người ngoại quốc tranh đấu cho tự do dân chủ mà phải trốn tránh được cư ngụ trên đất Việt nam (điều 16).
Quan trọng nhất là không nó không hề có một điều khoản nào qui định là một đảng phái nào hay một ý thức hệ nào là độc tôn và độc quyền lãnh đạo đất nước như các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà hay Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. [5]
Đứng trên phương diện lịch sử, hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý khai sinh nước Việt Nam độc lập sau hơn 80 năm bị mất chủ quyền về tay thực dân Pháp. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ sau khi quốc hội thông qua hiến pháp nên hiến pháp 1946 không được chính thức công bố và cuộc tổng tuyển cử nghị viện nhân dân không được thi hành. Tuy nhiên, theo tài liệu của đảng Cộng Sản thì chính phủ và ban thường vụ quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động trong nước. [5] . Và hiến pháp đó có giá trị cho đến năm 1960 khi hiến pháp 1959 được ban hành.
Tài liệu Đảng Cộng Sản cũng đánh giá như sau:
Hiến pháp 1946 là một bản hiến pháp cô đúc, khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Nó là bản hiến pháp mẩu mực trên nhiều phương diện. [6]
Mặc dù chính phủ kháng chiến ra đời không theo thủ tục của hiến pháp vì hoàn cảnh chiến tranh, và mặc dù những điều khoản của hiến pháp đã bị nhà nước vi phạm, chúng ta có thể xác định được rằng chính phủ đã công nhận hiến pháp 1946 là khế ước hợp pháp giữa quốc dân Việt và nhà cầm quyền đương thời. Hiến pháp 1946 xác định những giá trị căn bản về văn hoá, chính trị và kinh tế và biến những giá trị trị đó thành những lý tưởng và ước vọng dân tộc mà thế hệ 1945 đã hy sinh xương máu để chiến đấu và bảo vệ. Đồng thời nó xác định nhân dân là chủ nhân ông tuyệt đối của đất nước.
Do đó, hiến pháp 1946 là một hiến pháp tốt, có giá trị pháp lý, và là nền tảng pháp lý ắt có và đủ để xây dựng nước Việt Nam mới, tự do dân chủ và độc lập. Hiến pháp đó là nền tảng pháp lý cho mọi thay đổi pháp lý của các hiến pháp kế thừa.
III. Cái Chết Oan Khiên Của Hiến Pháp 1946 và Tính Chất Bất Hợp Pháp của Các Hiến Pháp Kế Thừa
Xác định tính cách hợp pháp và hợp lý của hiến pháp 1946 để nhấn mạnh một điểm là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (cho đến năm 1980) và nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (từ năm 1980 cho đến nay) đều phải mang tính kế thừa và mang tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946.
Sau năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà có thêm tất cả là 3 hiến pháp. Các hiến pháp tuần tự ra đời trong các năm sau đây: 1959 ban hành năm 1960, 1980 và 1992.
Tài liệu đảng Cộng Sản viết về thủ tục ra đời của hiến pháp 1959, là bản hiến pháp kế thừa trực tiếp bản hiến pháp 1946, như sau:
"Hiến pháp 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của nhà nước ta đã hoàn thành sứ mệnh của nó, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kỳ họp lần thứ sáu, Quốc Hội nước Việt nam Dân Chủ Cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi hiến pháp 1946 và thành lập ban dự thảo hiến pháp sửa đổi".
Tài liệu này viết tiếp:
"Sau khi làm xong bản dự thảo đầu tiên, tháng 7 năm 1958 bản dự thảo đã được thảo luận trong các cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan quân dân, chính, Đảng. Sau đợt thảo luận này, bản dự thảo đã được chỉnh lý lại vào ngày 1 tháng 4 năm 1959 đem công bố để tòan dân thảo luận và đóng góp ý kiến xây dựng. Cuộc thảo luận nầy làm trong 4 tháng liền tại khắp nơi trong các cơ quan, xí nghiệp, trường học và các tổ chức khác của nhân dân, ở thành thị và nông thôn, việc nghiên cứu và thảo luận dự thảo hiến pháp tiến hành sôi nổi và đã trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi có đủ các tầng lớp nhân dân tham gia".
Tài liệu trên kết luận về phần thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 như sau:
“Ngày 18-12-1959, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá I, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc báo cáo về dự thảo hiến pháp sửa đổi. Ngày 31-12-1959, quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960 Chủ tịch ký sắc lệnh công bố hiến pháp.” [7]
Khi bàn về hiến pháp 1959, tài liệu của ĐCSVN viết như sau:
“Hiến pháp 1959 là sự kế thừa và phát triển của hiến pháp 1946 trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.”[7]
Những trích dẫn kể trên cho thấy nhà nước tự ý tuyên bố là Hiến Pháp 1946 đã "hoàn thành sứ mệnh" của nó mà không nói rõ ràng thế nào là "sứ mệnh của hiến pháp" và thế nào là "hoàn thành". Trong hiến pháp 1946 không hề có điều khoản nào xác định "sứ mệnh của hiến pháp" và ấn định rằng khi hiến pháp "hoàn thành" sứ mệnh của nó thì giá trị thi hành của hiến pháp phải bị chấm dứt.
Thế thì, lý do khai tử hiến pháp 1946 hòan toàn vô căn cứ. Cái chết của hiến pháp 1946 là một cái chết oan khiên, cái chết ngụy tạo. Hiến pháp 1946 đã bị ĐCSVN xé bỏ một cách tức tưởi vì hiến pháp 1959 không có lý do chánh đáng và hợp pháp để thay thế hiến pháp 1946.
Hơn nữa, vì nhà nước xác nhận hiến pháp 1959 là hiến pháp kế thừa của hiến pháp 1946 và đã cam kết điều hành đất nước theo tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946 nên sự thay đổi hiến pháp cũng phải tuân thủ yêu cầu của hiến pháp 1946.
Điều 70 của Hiến Pháp 1946 liên quan đến vấn đề thay đổi hiến pháp qui định như sau:
“Sửa đổi hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
a) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
b) Nghị viên bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
c) Những điều thay đổi khi đã được nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết."
Thủ tục thay đổi hiến pháp năm 1959 theo tài liệu của chính Đảng Cộng Sản dẫn chứng ở trên, đã chứng minh sự ra đời của hiến pháp nầy đã không theo đúng thủ tục tu chính hiến pháp qui định trong điều 70 của hiến pháp 1946.
Việc đem dự thảo hiến pháp ra cho "tòan dân" thảo luận và đóng góp ý kiến "một cách sôi nổi” như tài liệu ĐCSVN cho biết là một thủ tục tốt, nhưng hoàn toàn không có giá trị pháp lý. Hiến pháp 1946 không đòi hỏi nhân dân phải thảo luận và đóng góp ý kiến một cách … sôi nổi. Hiến pháp 1946 qui định rõ ràng, minh bạch, ngắn gọn và dễ hiểu là những thay đổi hiến pháp phải được nhân dân phúc quyết. Thủ tục phúc quyết này cần được hiểu là phải được thực hiện qua một cuộc trưng cầu dân ý (referendum) tự do để thể hiện sự chấp thuận của toàn dân. [8]
Sau khi tự ý bãi bỏ quyền phủ quyết của nhân dân trong quá trình thay đổi hiến pháp, ĐCSVN đã hợp thức hoá thủ tục bất hợp hiến nầy với hiến pháp 1959. Điều 112 của hiến pháp 1959 quy định thủ tục Sửa Đổi Hiến Pháp như sau:
Chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi phải được ít nhất là hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
So sánh điều khoản Sửa Đổi Hiến Pháp của hiến pháp 1946 và hiến pháp 1959, chúng ta thấy rằng với hiến pháp 1959, nhà cầm quyền CSVN đã loại hẳn vai trò phúc quyết của nhân dân. Hơn thế nữa, ĐCSVN như thể sợ nhân dân đứng lên đòi lại quyền phúc quyết nên phải nhấn mạnh thêm là chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Và dường như họ tin rằng nếu họ tự ý thay đổi điều khoản tu chính hiến pháp như thế thì họ có toàn quyền và tùy nghi thay đổi toàn bộ hiến pháp cho thích hợp với nhu cầu chính trị bất chấp giá trị thiêng liêng của khế ước chính trị giữa nhân dân và nhà cầm quyền.
Vì sự thể quyền phúc quyết những thay đổi hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nước của nhân dân,
Vì sự thể điều 70 hiến pháp 1946 qui định thủ tục pháp lý của sự thay đổi hiến pháp,
Vì sự thể lý do sửa đỏi hiến pháp có tính chất ngụy tạo,
Vì sự thể thủ tục sửa đổi hiến pháp để cho ra đời hiến pháp 1959 đã vi phạm nghiêm trọng điều 70 nầy,
Vì sự thể hiến pháp 1959 và các hiến pháp sau đó tước đoạt quyền sửa đồi hiến pháp của nhân dân Việt Nam
Chúng ta có thể khẳng định rằng, hiến pháp 1959 cùng các hiến pháp xuất hiện sau đó hoàn toàn không có dân chủ, bất hợp hiến và bất hợp pháp vì không có tính kế thừa và tính liên tục về mặt pháp lý, tinh thần và nội dung của hiến pháp 1946. Và vì thế, các hiến pháp kế thừa không có năng lực pháp lý để xác định tính chất hợp pháp và chính thống của nhà cầm quyền .
IV. Lối Ra và Lối Về
Nhận định về tính chất dân chủ của thủ tục lập hiến của nước ta hiện nay, luật sư Nguyễn Văn Thảo, cố vấn pháp luật của quốc hội và bộ chính trị ĐCSVN, trình bày trong bài viết "Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp" đăng trong Tạp Chí Cộng Sản số 12 tháng 6-2001, cho rằng thủ tục lập hiến của các hiến pháp xuất hiện sau hiến pháp 1946 không có tính cách dân chủ. Trong bài nầy Luật Sư Thảo đã có những nhận định về thủ tục soạn thảo hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 như sau:
"Thực tiễn nước ta có hai công thức soạn thảo (hiến pháp):
• Ban soạn thảo hiến pháp + trưng cầu dân ý (hiến pháp 1946)
• Ban soạn thảo hiến pháp + hỏi ý kiến nhân dân (hiếnpháp 1959, 1980, 1992)
Trong hai công thức trên, tổ chức trưng cầu dân ý là một thành tựu về phát huy dân chủ trực tiếp, thực chất là để từng công dân tham gia trực tiếp vào việc thông qua hiến pháp.
Công thức thành lập Ủy Ban soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân rồi trình lên Quốc Hội thông qua thì việc lấy ý kiến nhân dân khác hẳn với trưng cầu ý dân. Tập hợp ý kiến của nhân dân để chỉnh lý bản dự thảo Hiến Pháp, công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp." [10]
Một thủ tục soạn thảo hiến pháp mà "công dân không được tỏ thái độ trực tiếp với dự thảo Hiến Pháp, không tham gia việc thông qua Hiến Pháp" xác định tính chất mất dân chủ của hiến pháp nầy. Đó là trường hợp ra đời của các hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Đồng thời đó là lời xác minh sự vi phạm trầm trọng điều 70 của hiến pháp 1946 về nguyên tắc trưng cầu dân ý những thay đổi hiến pháp.
Với lý luận hiến pháp, luật sư Thảo muốn thay mặt ĐSCVN xác nhận với nhân dân rằng hiến pháp hiện nay, trên cơ sở điều 70 của hiến pháp 1946, không dân chủ, và do đó, không hợp hiến và hoàn toàn không có giá trị pháp lý.
Một chế độ hợp pháp không thể được xây dựng trên một hiến pháp bất hợp pháp. Đây là khủng hoảng hiến pháp lớn nhất trong mọi khủng hoảng hiến pháp liên quan đến giá trị chính thống (legitimacy) của chế độ.
Mặt khác, sự hiện diện của các đảng phái không Cộng Sản trong việc hình thành hiến pháp 1946 cho thấy rằng có một mối tương quan chặt chẽ giữa tinh thần dân chủ đa nguyên và hiến pháp 1946.
Đối với người Cộng Sản, hiến pháp 46 cùng với tuyên ngôn độc lập 1945 là những di sản tinh thần lớn nhất của phong trào Việt Minh. Những văn kiện lịch sử nầy không những là quan điểm chính trị lõi cốt của Hồ Chí Minh, mà còn là lời kết ước nghiêm túc nhất của những người Cộng Sản đối với nhân dân Việt Nam.
Do đó, nếu hiến pháp 1946 thể hiện những lý tưởng và ước vọng của thế hệ 1945 về một tổ quốc độc lập, về một thể chế chính trị dân chủ pháp trị và đa nguyên, là biểu tượng sự đoàn kết của toàn dân trong công cuộc đấu tranh chống Pháp, là đỉnh cao của các phong trào cách mạng từ Phan bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Trương Tử Anh, và phong trào Cộng Sản yêu nước, thì cái chết của nó là sự phản bội toàn bộ lý tưởng cứu nước và dựng nước của thế hệ 1945 và của nhân dân Việt Nam.
Vì lý do trên, mọi thay đổi hiến pháp dựa trên hiến pháp hiện nay hoàn toàn không có cơ sở pháp lý và tính chính thống lịch sử. Muốn tái lập tính chính thống lịch sử và pháp lý của chế độ hiện nay, muốn xây dựng một chế độ dân chủ đa nguyên, điều thiết yếu là Đảng Cộng Sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam phải trở về với những giá trị của hiến pháp 1946, phải trả lại cho nhân dân quyền làm chủ đất nước, và quyền phúc quyết mọi thay đổi hiến pháp.
V. Kết Luận
Vì hiến pháp là luật pháp tối cao xác định giá trị pháp lý của nhà nước, do đó, với một hiến pháp không có cơ sở pháp lý như hiến pháp hiện nay, nhà nước không có năng lực pháp lý để tồn tại. Và nhà nước không thể tiếp tục tồn tại và lãnh đạo đất nước trong tình trạng không hợp pháp, không hợp hiến và không có tính chất chính thống.
Đối với nhân dân Việt Nam, vấn đề không phải là vấn đề thay đổi chắp vá vài ba chương, hay hai ba điều khoản của hiến pháp hiện nay như ĐCSVN đề nghị, hoặc chỉ bỏ điều 4 hiến pháp như một số nhà đấu tranh dân chủ đề nghị. Những thay đổi hiến pháp chỉ có giá trị khi quyền phúc quyết hiến pháp của nhân dân được tái lập.
Khổng Tử viết: "thượng bất chính, hạ tắc loạn". Trong thời đại dân chủ, một nhà nước không có cơ sở hiến pháp dân chủ hợp pháp và chính thống để chứng minh sự tồn tại của nó là một trường hợp "thượng bất chính" nghiêm trọng nhất của mọi trường hợp "thượng bất chính" và nó chắc chắn sẽ dẫn tới một kịch bản "hạ tắc loạn".
Chúng ta có thể nhận định rằng nổ lực giải quyết khủng hoảng hiến pháp là đầu mối để tháo gở chế độ thượng bất chính hiện nay. Nó sẽ là căn cứ địa hồi sinh dân tộc. Bất kỳ nhân dân một chọn lựa phương cách giải quyết khủng hoảng hiến pháp như thế nào, hoặc quay trở về với hiến pháp 1946 hoặc thực hiện một hiến pháp mới, tất cả đều phải tuân thủ nguyên tắc lập hiến của hiến pháp 1946. Nó sẽ là cơ sở pháp lý ắt có cho sự ra đời của một nước Đại Việt mới của thời đại 2000. Chỉ có giá trị của hiến pháp 1946 mới có thể tiếp nối tính chính thống về lịch sử và pháp lý của nhà cầm quyền, và phục hồi chổ đứng lịch sử của các đảng phái cách mạng yêu nước.
Với một hiến pháp xác định quyền làm chủ đất nưóc của người dân, nhân dân Việt mới có thể hành xử quyền làm chủ đất nước của mình.
Chỉ có một chính quyền có giá trị chính thống về lịch sử và pháp lý mới có đầy đủ cơ sở vật chất và tinh thần để thực hiện công cuộc phục hưng dân tộc, phục hoạt văn hoá, và bảo toàn lãnh thổ, để tiếp nối sứ mạng cứu quốc tồn chủng của tiền nhân. Nội dung của cơ sở vật chất và tinh thần đó là một chế độ dân chủ pháp trị, đa nguyên đa đảng. Đó là nền tảng của sức mạnh dân tộc để đưa đất nước ra khỏi cơ chế độc đoán trì trệ và ao tù của chuyên chính, để đưa dân tộc Việt vào giai đoạn cất cánh kinh tế toàn dân. Có như thế, nước Đại Việt của thời đại 2000 mới có thể hoà nhập được với cộng đồng các dân tộc văn minh tiến bộ của nhân loại ở thế kỷ 21, và để rửa mối nhục nghèo đói, ngu dốt và lạc hậu xã hội chủ nghĩa của thế hệ 45, một thế hệ rất hào hùng nhưng vô cùng bất hạnh.
LS Nguyễn Xuân Phước
viết lại 4/17/2005
Tính chất bất hợp pháp của hiến pháp hiện nay
8/8/2002
Sách Tham Khảo và ghi chú
[1] Jean Jacque Rousseau, Social Contract, lưu trữ ở http://books.mirror.org/gb.rousseau.html
[2] Nguyễn Xuân Chữ, "Hồi Ký Nguyễn Xuân Chữ". Nguyễn Xuân Phát và Chính Đạo hiệu đính, Văn Hoá, Houston ấn hành 1996. trang 301-310
[3] Chú thích của người viết: Các tài liệu lịch sử về cuộc bầu quốc hội và danh sách quốc hội rất là thiếu sót. Tôi rất mong được các nhà sử học trong nước và ngoài nước góp thêm ý kiến và sử liệu.
[4] Nguyễn Lý Tưởng, Thuyền Ai Đợi Bến Vân Lâu, trang 77, Tác giả Xuất Bản Hoa Kỳ 2001
[5] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946,
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html
[6] Hoàn Cảnh Ra Đời Và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1946,
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp46.html
[7] Hoàn Cảnh Ra Đời và Nội Dung Cơ Bản Của Hiến Pháp 1959
http://www.cpv.org.vn/vietnam/hp59.html
[8] Nguyễn Văn Thảo, "Soạn thảo, sửa đổi hiến pháp, và thực hiện bảo vệ hiến pháp", Tạp Chí Cộng Sãn tháng 6-2001 http://www.cpv.org.vn/tccs/122001/10-nguyenvanthao.htm
[9] ibid.
[10] Lê Xuân Khoa, Việt nam 1945-1995, Tiên Rồng Xuất Bản, Hoa Kỳ 2004.
Inscription à :
Publier les commentaires (Atom)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire