1.[z-qhx] (H) [qhx] (H) [xhds] (H) [stls] (H) [tacs] (H) [db] (H) [gfv] (H) [news] (H) [TdDcNq] [H] - 2.DOWNLOAD TaiLieu - 3. VUOT TUONG LUA - 4.[Chu Viet] - 5.[Audio] 6.[SuThat] - 7.[Thu doan cs d/v Ton giao] (10.H_mt) (11.H_qh)

samedi 3 février 2007

La^t. ta^y? Tu tuong dao duc cua HCM

Tư liệu bổ sung về HCM - tập 14 :
Lật tẩy “Đạo đức & Tư tưởng HCM”

Lm Nguyễn Văn Lý sưu tập - 27.01.2007

1. Lại chuyện đạo đức & tư tưởng HCM
Trần Gia Phụng - 25.01.2007

Đài BBC ngày 12-01-2007 loan tin : đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) vừa đưa ra Chỉ Thị số 06-CT/TW (07-01-2007), tổ chức cuộc vận động dân chúng “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”, nhắm làm cho toàn Dân nắm vững “nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức HCM”. Cuộc vận động sẽ khởi diễn từ ngày 3-2-2007 và tổng kết vào ngày 3-2-2011. Hàng năm, cuộc vận động sẽ được sơ kết vào ngày 19-5. (Theo ĐCSVN, ngày 3-2 là ngày kỷ niệm thành lập đảng, và ngày 19-5 là ngày kỷ niệm sinh nhật HCM.)
“Đây là một chủ trương lớn vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc… tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức HCM sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư ; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.” (Nguyên văn chỉ thị do BBC trích)
Câu hỏi đặt ra là : Tại sao có Chỉ Thị nầy và tại sao chỉ vận động trong bốn năm ?

Đạo đức và tư tưởng HCM là gì ?

1. Tại sao có Chỉ Thị này ?

Ai cũng biết, từ lâu nay, ĐCSVN luôn bắt mọi người ở trong Nước học tập đạo đức và tư tưởng HCM. Trẻ em tiểu học tới trường đã bị buộc phải học thuộc lòng “Năm điều bác Hồ dạy”. Đó là : “Yêu Tổ quốc, yêu Đồng bào. Học tập tốt. Lao động động tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.” Nhắc lại một ví dụ nhỏ như thế để cho thấy là từ lâu, học tập HCM hầu như là một điều tất yếu cho mọi công dân Việt Nam, từ trẻ em, đến sinh viên, đoàn viên thanh niên, phụ nữ, quân đội… Thế thì tại sao nay ĐCSVN lại phải ra chỉ thị tổ chức cuộc vận động dân chúng “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM” ?

Trước khi đi vào vấn đề, cần phải chú ý đến hoàn cảnh mới của Việt Nam. Việt Nam chính thức trở nên thành viên thứ 150 của tổ chức WTO từ ngày 7-1-2007. Có thể nói, hiện nay là thời kỳ quá độ của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam tiến lên hội nhập vào nền kinh tế thị trường trên thế giới, trước khi Việt Nam từ bỏ hẳn các lý tưởng kinh tế của chủ nghĩa Mác Lê trước đây.

Thực tế hiện nay ở trong Nước, mà hầu như không ai phủ nhận, đó là đại đa số cán bộ đảng viên quá tham nhũng và tham nhũng có hệ thống. Không tham nhũng thì không thể tồn tại được, vì lấy tiền đâu mà “đóng hụi chết” cho thượng cấp ? Theo nhiều người, bệnh tham nhũng trong chế độ Việt Nam hiện nay là bệnh nan y, hết thuốc chữa !

Cán bộ đảng viên là thành phần lãnh đạo xã hội, mà tham nhũng thì toàn bộ sinh họat xã hội sẽ bị ảnh hưởng, nhiễu xạ, băng họai, từ văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế, y tế … đến thể dục, thể thao. Với đội ngũ cán bộ như thế, Nhà nước Việt Nam làm thế nào có thể điều động guồng máy kinh tế cho kịp với đà vận hành của nền kinh tế thị trường ? Nếu trong giai đọan quá độ, mà cán bộ tham nhũng, vô kỷ luật, thì có thể sẽ đi đến chỗ quá đà, quá trớn, bước ra ngoài tầm kiểm soát của ĐCSVN. Phải chăng vì khủng hoảng đạo đức trầm trọng nên ĐCSVN phải phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM” ?

Thứ đến, trước đây lãnh đạo ĐCSVN thường là những lãnh tụ trong hai cuộc chiến tranh 1946-1954 hay 1956-1975. Sau giới nầy, đến những nhà lãnh đạo do Liên Xô đào tạo như Phan Văn Khải, Trần Đức Lương, Nông Đức Mạnh. Nay chiến tranh chấm dứt đã hơn 30 năm. Liên Xô sụp đổ được một phần tư thế kỷ. Giới lãnh đạo ngày nay không thuộc hai thành phần trên, mà có thể nói đa số là những nhà hành chánh “văn phòng phẩm”, xuất thân từ hệ thống văn phòng ĐCSVN sau năm 1975. Ưu điểm của những nhà lãnh đạo nầy là trẻ trung, ít vướng mắc vào những vấn đề quá khứ như Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm … Tuy nhiên ưu điểm nầy cũng chính là khuyết điểm của họ, vì họ không đủ thành tích chiến đấu, thử thách trong chiến tranh và trong “tù tội”, nên tiếng nói của họ thiếu trọng lượng đối với cán bộ, đảng viên. Theo nhà văn Trần Vàng Sao, sau 1975, ông Nguyễn Khoa Điềm còn là nhân viên trong văn phòng một huyện ở Huế, mà nhờ gia thế (con của Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) nên chỉ hơn 20 năm, lên tới ủy viện bộ Chính trị, Trưởng ban văn hóa tư tưởng đảng. Do đó ông thật sự không đủ uy tín chính trị như những nhân vật trước ông ta đã vào tù ra khám, hoặc xuất thân từ các trường đảng ở Liên Xô. Các ông Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng cũng thế mà thôi.

Nói cách khác, sau đại hội X ĐCSVN từ 18-4 đến 25-4-2006 tại Hà Nội, Việt Nam lâm vào bế tắc lãnh đạo nếu không muốn nói là khủng hoảng lãnh đạo, nhất là trong giai đọan biến chuyển từ kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập vào nền kinh tế tự do trên thế giới. Kinh nghiệm quá khứ cho thấy, mỗi lần có biến chuyển khó khăn, khủng hoảng chánh trị hay kinh tế, thì CSVN thường nhờ đến hình tượng HCM.

Từ sau năm 1975, tình hình kinh tế Việt Nam suy sụp dần dần do thực hiện chính sách kinh tế chỉ huy. Sự suy thoái lên cao điểm năm 1978 khi ông Đỗ Mười, ủy viên Bộ chính trị ĐCSVN, chỉ huy cuộc cải tạo công thương nghiệp miền Nam, đánh tư sản, ngăn sông cấm chợ, cấm cảng tiểu thương, đày ải dân chúng đi các vùng “kinh tế mới”, cưỡng bách lao động trong những công tác thủy lợi thiếu nghiên cứu, tung quân xâm lăng Cambodia. Dân chúng đói khổ ta thán, tinh thấn cán bộ đảng viên cũng chán nản, sa sút theo.

Trong tình hình đen tối đó, để lấy lại khí thế (từ ngữ của Cộng sản), ĐCSVN tổ chức “Rước đuốc bác Hồ” vào tháng 10-1980, tuyên truyền làm sống lại hình tượng HCM. Cuộc rước đuốc từ lăng HCM ở Hà Nội, lên các tỉnh phía Bắc và vào miền Trung, nhưng đến khoảng Nha Trang thì dân chúng không hưởng ứng, nên ngưng hẳn. Dân chúng miền Nam rất tiếc không thấy đuốc bác Hồ !

Lần thứ hai, khi các Nước CS Đông Âu và Liên Xô sụp đổ vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, câu khẩu hiệu chiến lược hàng đầu của ĐCSVN là “Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng muôn năm”, không còn giá trị. Mới có 70 năm mà đã sụp đổ thì sao gọi là muôn năm ? Vì vậy ĐCSVN phải từ bỏ câu khẩu hiệu nầy và ĐCSVN quay qua cầu cứu HCM, sáng tác ra “tư tưởng HCM”, đưa vào điều 4 Hiến pháp năm 1992.

Trong năm vừa qua, một biến cố quan trọng xảy ra ở Âu Châu. Ngày 25-1-2006, tại Strasbourg, một thành phố miền đông bắc Nước Pháp, Quốc hội Âu Châu, với đa số áp đảo, 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống, đã đưa ra nghị quyết số 1481, lên án chủ nghĩa CS là tội ác chống nhân loại, và các chế độ toàn trị CS đã vi phạm Nhân quyền tập thể. Nghị quyết nầy, một lần nữa nhận sâu thêm xuống vực thẳm con thuyền chủ nghĩa CS, vốn đã bị bão táp thời đại đánh cho tơi tả.

Dầu báo Nhân Dân của CSVN đã cho người viết bài lên tiếng phản đối Nghị quyết nầy, và gọi đây là một hành động sai trái của Quốc hội Âu Châu, nhưng CSVN không thể “lấy thúng úp miệng voi”, nên không thể phủ nhận một thực tế, là chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Mác-Lênin càng ngày càng bị xa lánh, và chế độ CS toàn trị rõ ràng không còn hợp thời, nhất là với các Nước đối tác với Việt Nam trong WTO, là những Nước tự do dân chủ. Phải chăng vì vậy, qua đầu năm 2007, ĐCSVN tập trung đánh bóng trở lại lãnh tụ HCM, tuyên truyền rằng ông ta không phải chỉ là người học trò trung thành của Mác-Lê, mà còn là một lãnh tụ Dân tộc, và dùng hình ảnh của ông ta thu hút các Nước trên thế giới.

Một điểm đáng chú ý nữa là cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”, sẽ bắt đầu từ ngày 3-2-2007 và tổng kết vào ngày 3-2-2011, tức trong bốn năm tròn. Học tập đạo đức thì phải học suốt đời, chứ sao chỉ học bốn năm ? Phải chăng đây là chương trình tiểu học, trung hay đại học ? Hay đây là kế họach kinh tế tứ niên, kế họach ngũ niên…? Xa hơn nữa, là trùng với nhiệm kỳ năm năm của Bộ chính trị ĐCSVN, hay nhiệm kỳ của Quốc hội Cộng Hòa Xã Hội Chú Nghĩa Việt Nam ? Chỉ có nơi nào đưa ra chỉ thị mới có thể trả lời câu hỏi nầy, nhưng rất tiếc không thấy giải thích cụ thể từ phía đã đưa ra chỉ thị, vì sao chỉ học tập trong bốn năm ?

Cuối cùng, chỉ thị số 06-CT/TW, tổ chức cuộc vận động dân chúng “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”, cũng giống như chỉ thị ngày 29-11-2006 của Nguyễn Tấn Dũng về việc tăng cường lãnh đạo và quản báo chí, cấm tuyệt đối không cho báo chí tư nhân, đều do Bộ chính trị ĐCSVN ra lệnh thi hành. Điều nầy theo đúng nguyên tắc của CSVN là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, (không biết làm chủ cái gì ?), nhưng không theo đúng vận hành trong một chế độ dân chủ tự do thật sự, là chỉ có hành pháp (tổng thống hay thủ tướng) và lập pháp (quốc hội) mới có quyền ra chỉ thị bắt Nhà nước thi hành.

2. Đạo đức HCM ?

Đã nói học tập đạo đức và tư tưởng HCM thì phải biết sơ qua đạo đức và tư tưởng của HCM là gì?

a. Đạo đức gia đình
Trước hết, thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau nầy là HCM), rời Sài Gòn ngày 5-6-1911 để mưu sinh. Giành giụm được một số tiền, từ New York, ngày 15-12-1912, Nguyễn Tất Thành gởi về nhờ viên khâm sứ Pháp tại Huế, giao lại cho cha mình. Như thế Nguyễn Tất Thành có thể được xem là người mở đầu phong trào vượt biên và chuyển ngân về giúp gia đình mà ngày nay đang thịnh hành. Đây là tấm gương đáng khuyến khích để giúp phát triển kinh tế gia đình và cũng là kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, Nguyễn Tất Thành còn xin viên khâm sứ Pháp kiếm cho cha mình một công việc như giáo thụ (giáo viên), để đủ sống qua ngày. Hành động hiếu đễ của cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành thật đáng khen. Rất tiếc, khi gia nhập đảng CS, Nguyễn Tất Thành từ bỏ luân lý truyền thống Dân tộc, chuyển lòng trung hiếu thành lý tưởng phục vụ đảng và chủ nghĩa CS, đến nổi chính phụ thân của Nguyễn Tất Thành, ông Nguyễn Sinh Sắc, rất bực mình “không muốn nghe nói đến người con hư của mình… mà các chủ thuyết chẳng những đả phá uy quyền của nhà vua, mà còn đả phá luôn uy quyền của người gia trưởng”.(1) Trong di chúc trước khi chết, HCM viết : “…tôi để sẵn mấy lời nầy, phòng khi tôi đi gặp cụ Cac Mac, cụ Lênin…”(2) Không biết HCM có gặp được các ông tổ CS nầy hay không, nhưng chắc chắn ông không đề cập gì đến việc gặp phụ thân của ông là Nguyễn Sinh Sắc, đang yên nghỉ ở Sa Đéc (Nam phần), và tổ tiên ông ở Nghệ An. Điều nầy sẽ giải thích vì sao trong “Năm điều bác Hồ dạy”, không có điều nào ông Hồ dạy trẻ em phải có hiếu với cha mẹ, thuận thảo với anh em, lễ độ với người lớn tuổi.

Cũng trong đạo đức gia đình, khi lấy vợ, HCM chẳng những không trung thành với vợ mà còn tàn ác với vợ. Không kể những mối tình lẻ tẻ, HCM có hai cuộc sống vợ chồng rõ ràng là cuộc hôn nhân với bà Tăng Tuyết Minh và cuộc sống chung với bà Nông Thị Xuân.

Tháng 10 năm 1926 tại Quảng Châu (Trung Hoa), HCM, lúc đó có tên là Lý Thụy, làm lễ thành hôn với một phụ nữ Trung Hoa là bà Tăng Tuyết Minh (1905-1991), tại nhà hàng Thái Bình, ở trung tâm thành phố, với sự hiện diện của bà Đặng Dĩnh Siêu (vợ Chu Ân Lai), Bào La Đình, Thái Sương. Khi chiến tranh Quốc Cộng bùng nổ năm 1927, Lý Thụy phải trốn tránh nên phải xa Tăng Tuyết Minh. Tháng 5-1950, nhìn thấy hình HCM trên báo Nhân Dân (Trung Hoa), Tăng Tuyết Minh gởi nhiều lá thư cho HCM, thông qua đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan, nhưng đều không được trả lời.(3)

Khi về Hà Nội cầm quyền sau năm 1954, HCM vui duyên mới, với một phụ nữ trẻ đẹp là bà Nông Thị Xuân năm 1955. Lúc đó HCM khoảng 65 tuổi, Nông Thị Xuân khoảng 22 tuổi. Hai người có một con trai là Nguyễn Tất Trung. Một thời gian sau, bà Xuân bị HCM bỏ, và bị thủ tiêu một cách tàn nhẫn. Nguyễn Tất Trung được giao cho người khác nuôi, ngay khi HCM còn sống.(4a)

Với những tài liệu rõ ràng không thể chối cãi như thế, bất hiếu với cha, giết vợ bỏ con, HCM có phải là tấm gương đạo đức gia đình cho cán bộ đảng viên hay không ? Trước khi bắt cán bộ đảng viên học tập, mong các quan chức trong Bộ Chính trị hãy can đảm kể sự thật những chuyện trên đây cho vợ con trong gia đình các ông nghe, và hỏi ý kiến của vợ con các ông, như thế HCM có xứng đáng cho các ông học tập và noi theo gương đối xử với vợ con như thế hay không ? Nếu cán bộ đảng viên CSVN theo gương HCM, giết vợ, bỏ con thì xã hội Việt Nam sẽ ra sao ?

b. Đạo đức cách mạng

Thanh niên Nguyễn Tất Thành đến Marseille khoảng ngày 10-7-1911. Hơn hai tháng sau, thanh niên Nguyễn Tất Thành cùng một lần viết hai lá đơn đề ngày 15-9-1911, gởi cho tổng thống Pháp và gởi cho bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, xin vào học trường Thuộc Địa Paris, là trường chuyên đào tạo quan chức cho các thuộc địa Pháp. Lá đơn nầy đều bị cả hai nơi từ chối. (Hồ sơ hiện còn lưu trữ trong thư khố Pháp.) Như thế thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi vì lý do kinh tế, mưu sinh, là việc thường tình trong đời sống, nhưng chắc chắn không phải là ra đi tìm đường cứu Nước. Cứu Nước sao lại xin vào học trường thuộc địa để ra làm quan cho thực dân Pháp ?

Khi Đệ tam Quốc tế (ĐTQT) chuẩn bị gởi HCM, lúc đó là Nguyễn Ái Quốc, từ Liên Xô qua Viễn Đông hoạt đông, Nguyễn Ái Quốc viết thư đề ngày 11-4-1924 gởi cho Ban Chấp hành Quốc tế CS, đề nghị cấp cho ông ta “một ngân sách xấp xỉ 100 đô la mỗi tháng không kể hành trì Nga-Trung Quốc”. (HCM toàn tập, tập 2, tt. 251-252.)
Sau khi qua Trung Hoa, tuy được cấp lương chi dùng nhưng không đủ, Nguyễn Ái Quốc phải làm đơn ngày 19-2-1925 xin các đồng chí ĐTQT vui lòng cấp thêm cho một số tiền. (Báo Điện tử ĐCSVN, trích ngày 8/1/2007.)

Đây là những tài liệu do chính ĐCSVN đưa ra, cho thấy Nguyễn Ái Quốc (HCM) tự nguyện biến thành một cán bộ chính trị chuyên nghiệp của ĐTQT, lãnh lương của ĐTQT mà từ ngữ dân sự gọi là công chức hay cán bộ, và từ ngữ quân sự gọi là lính đánh thuê cho ĐTQT, dưới sự điều khiển của Liên Xô. Một khi lãnh lương Nước ngoài để họat động cách mạng ở Việt Nam, thì sau khi thành công, người công chức hay cán bộ đó, hoặc kẻ đánh thuê đó, chắn chắn phải có bổn phận hay nghĩa vụ đóng góp trở lại cho Nước ngoài. Phải chăng vì vậy, khi HCM mở cuộc xâm lăng miền Nam, vào đầu thập niên 60, Lê Duẩn đã phát biểu : “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc…”(4b) Đó là có phải là đạo đức cách mạng của HCM không ?

Học được phương pháp tổ chức và khuynh đảo của Học viện Thợ thuyền Đông phương tại Moscow, Nguyễn Ái Quốc lấy phương châm “cùng đích biện minh cho phương tiện”, đã sử dụng mọi phương tiện, thủ đọan, bất chấp đạo lý, tình nghĩa, để phát triển tổ chức CS, bành trướng chủ nghĩa ĐTQT theo kiểu Lenin và Stalin.
Nhận lãnh sứ mạng của ĐTQT, HCM lợi dụng lòng yêu Nước của người Việt, mở cuộc chiến tranh gọi là giải phóng Đất nước thoát ách ngoại xâm, rồi lại tiêu diệt tự do của Dân chúng. Giải phóng Đất nước là đưa Đất nước ra khỏi tình trạng bị nô dịch, đem lại tự do cho Đất nước. Đàng nầy, Đất nước tránh vỏ dưa, lại trợt vỏ dừa. Thoát khỏi tay Pháp thì bị CS toàn trị, còn độc tài, độc ác và bóc lột hơn cả thời Pháp thuộc. Thời Pháp thuộc đâu có Cải cách ruộng đất giết hại cả hàng trăm ngàn nạn nhân vô tội ? Đâu có Nhân văn Giai phẩm tiêu diệt biết bao nhiêu nhân tài ? Dầu thực dân Pháp nổi tiếng bóc lột, nền kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc vẫn đứng hàng đầu ở Đông Nam Á, dân chúng Việt Nam đâu có nghèo đói cơ cực như “thời đại HCM”. Sau năm 1975, dân chúng miền Nam Việt Nam có một câu tục ngữ mộc mạc : “Đả đảo Thiệu Kỳ, cái gì cũng có. Hoan hô HCM, một cái đinh cũng không có.” Ai cũng biết, ngày nay.

Phải chăng do di sản đạo đức cách mạng của HCM, mà ngày nay Bộ chính trị ĐCSVN đưa ra thông báo số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí, nghĩa là triệt để cấm tư nhân được quyền ra báo ? Cho đến đầu thế kỷ 21 mà tư nhân ở Việt Nam chưa được quyền ra báo, thì Tây thực dân cũng phải chào thua CSVN !

3. Tư tưởng HCM ?

Từ đâu xuất hiện Tư Tưởng HCM ? Theo ông Dương Trung Quốc, tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam ở trong Nước, “... tại Đại hội VII, ta bắt đầu đề cập tới khái niệm về “tư tưởng HCM” thì rồi sau đó mới tập trung triển khai nghiên cứu xem “tư tưởng HCM là gì ?” (Dương Trung Quốc, “Đóng góp ý kiến văn kiện Đại hội X”, Đàn Chim Việt, ngày 25-11-2005.)

Đại hội VII ĐCSVN họp từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội. Đỗ Mười được bầu làm tổng bí thư. Lúc đó, vừa xảy ra những biến động làm sụp đổ chế độ CS ở các Nước Đông Âu vào năm 1990. Từ đầu năm 1991, Liên Xô bắt đầu lâm vào tình trạng khủng hoảng, sắp sửa tan rã. Chủ nghĩa Mác-Lê không còn ăn khách. Đảng CSVN lúng túng, không biết làm sao tiếp tục tuyên truyền với đảng viên và dân chúng, liền vội quay qua cầu cứu HCM lần nữa, đưa thêm “tư tưởng HCM” tiếp theo sau chủ nghĩa Mác-Lê, nghĩa là từ nay, nền tảng của ý thức hệ Cộng sản Hà Nội là chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng HCM. Do đó mới xuất hiện chuyện “tư tưởng HCM”. Để điều chỉnh căn bản ý thức hệ đang bị lung lay, CS Hà Nội cho sửa đổi hiến pháp, và chính thức hợp thức hóa một cách công khai “tư tưởng HCM” bằng điều 4 Hiến pháp năm 1992.

“Tư tưởng HCM” theo ĐCSVN : Chữ “tư tưởng” có hai ý nghĩa thông thường : 1. Nghĩa hẹp, tư tưởng là sự suy nghĩ hay ý kiến của một người về các vấn đề trong cuộc sống. Sự suy nghĩ nầy sẽ hướng dẫn người đó hành động hay thực hiện các ý định của họ. 2. Nghĩa rộng, tư tưởng là hệ thống suy tư hay tư duy của các cá nhân hay tổ chức về một số vấn đề trọng đại, có tính cách thuần lý, để giúp đỡ, hướng dẫn, giáo dục con người theo một đường lối nào đó. Trong ý nghĩa thứ nhì nầy, “tư tưởng” đồng nghĩa với “triết lý” ; ví dụ “tư tưởng Phật giáo”, “tư tưởng Lão Trang”...
Đảng CSVN sắp hạng tư tưởng HCM theo nghĩa thứ nhì, tức nghĩa rộng trên đây, nhưng không thấy ĐCSVN trình bày một cách có hệ thống tư tưởng HCM là gì ? Ngược lại, ngay từ Đại hội 2 của đảng CS vào tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, để đưa đảng CS ra hoạt động công khai trở lại với danh xưng mới là đảng Lao Động (LĐ) do Stalin đặt, HCM phát biểu : “Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin... lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.”. Khi đó, đại biểu miền Nam là Nguyễn Văn Trấn đã trình bày với HCM rằng : “Có đồng chí còn nói : hay là ta viết “tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng HCM”. Ông Hồ trả lời : “Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin.” Cũng trong Đại hội nầy, HCM nhiều lần tuyên bố : “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được.” Một lần khác, có người đã hỏi HCM vì sao ông không viết sách về lý thuyết CS, thì ông trả lời ông không cần viết, vì đã có Mao Trạch Đông viết rồi. (***)

Đảng CSVN ca ngợi HCM là nhà “giải phóng Dân tộc”. Thật ra HCM chống Pháp vì người Pháp không biết điều với ông ta. Ngày 15-9-1911, HCM làm đơn xin vào học Trường Thuộc Địa Paris là trường chuyên đào tạo các quan chức thuộc địa, để ra làm quan cho Pháp. HCM tình nguyện đặt mình dưới sự sai khiến của người Pháp, nhưng ông bị Pháp từ chối, nên ông chống Pháp. Trong trường hợp HCM được vào học Trường Thuộc Địa Paris và được ra làm quan cho Pháp, thì ông đâu có chống Pháp.

Giả thiết HCM là “nhà giải phóng Dân tộc” như sách báo CSVN đã viết, thì tư tưởng giải phóng Dân tộc không phải là một hệ thống tư duy triết học. Tư tưởng giải phóng Dân tộc cũng không do HCM khởi xướng, mà đã tiềm ẩn trong trí óc của người Việt từ thuở Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 40, cách đây gần hai ngàn năm, truyền từ đời nầy qua đời khác. Nhờ vậy người Việt và Nước Việt mới tồn tại cho đến ngày nay trước bao nhiêu cuộc ngoại xâm. Còn việc HCM viết rằng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, thì đây chỉ là khẩu hiệu để HCM và ĐCSVN lợi dụng tinh thần độc lập Dân tộc và lòng yêu quý tự do của người Việt để đưa Đất nước vào vòng thống trị của chế độ CS độc tài toàn trị.

Đảng CSVN còn cho HCM đã có sáng kiến kết hợp công cuộc giải phóng Dân tộc với đấu tranh giai cấp và chủ nghĩa xã hội. Thật ra người đưa ra sự kết hợp nầy là Lenin, nhà lãnh đạo cuộc Cách mạng CS năm 1917 ở Nga. Liên minh công nông chống thực dân phong kiến, cũng không phải do HCM nghĩ ra. Ai cũng biết đó là tư tưởng của Mao Trạch Đông, lấy nông thôn bao vây thành thị, khi ông ta muốn ứng dụng chủ nghĩa Mác-Lê vào Trung Hoa. Josip Broz Tito (Yugoslavia) là người chủ trương đảng và chế độ CS Quốc gia độc lập, chứ không nằm trong hệ thống Đệ tam Quốc tế CS từ năm 1948. HCM chưa hề có tư tưởng như Tito. Nói cho cùng, HCM không có một hệ thống tư duy nào để trở thành nhà tư tưởng, như ĐCSVN áp đặt.

Vì HCM không có tư tưởng gì, nên những kẻ thừa kế tha hồ vẽ vời sáng tác mọi chính sách rồi gắn cho nhãn hiệu HCM. Họ chắp nối một số diễn văn, lời nói của ông ta để hình thành “tư tưởng HCM”. Họ giải thích tùy hứng những điều mà họ nói là “tư tưởng HCM”, không khác gì lối diễn giải tùy thích những sấm truyền bí hiểm của các nhà tiên tri như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo dõi những bài diễn văn, những khẩu hiệu do ông Hồ đưa ra, mọi người đều nhận biết rõ ràng tất cả đều do ông Hồ cóp nhặt từ các nhà tư tưởng, văn hóa và chính trị Đông Tây.

Ví dụ bài diễn văn khai sinh chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ đọc ngày 2/9/1945, thường được đảng CS gọi là bản “Tuyên ngôn độc lập”, hoàn toàn vay mượn của các văn bản Pháp và Mỹ. Mọi người sẽ không lấy làm lạ nếu biết rằng người giúp ông Hồ viết bản văn nầy là một thiếu tá người Hoa Kỳ, Archimedes L. A. Patti.

Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng hơn 3.000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc (dạy từ lớp 6 đến lớp 10 trung học, lúc đó hệ trung học ngoài Bắc chỉ có 10 năm), do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, HCM viết : “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958) Câu khẩu hiệu nầy được treo ở tất cả các trường đại học và trung tiểu học dưới chế độ CS. Câu khẩu hiệu nầy được sách vở CS xem là tư tưởng vĩ đại của HCM về kế hoạch đào tạo nhân tài cho Đất nước, thật ra là câu nói của Quản Trọng (Quản Di Ngô) cách đây hơn hai ngàn năm. “Nhất niên chi kế tại ư thụ cốc ; thập niên chi kế tại ư thụ mộc ; bách niên chi kế tại ư thụ nhân.” (Kế một năm trồng lúa, kế mười năm trồng cây, kế trăm năm trồng người).

Một trong những khẩu hiệu hàng đầu được xem là tư tưởng HCM, để huấn luyện và giáo dục cán bộ CS là “Chí công vô tư, cần kiệm liêm chính”, được rút từ lời dạy của Nho giáo cũng đã trên 2.000 năm.

Nêu lên vài ví dụ trên đây để thấy rằng những điều gọi là tư tưởng HCM (hiểu theo nghĩa rộng là một hệ thống tư duy) chỉ là sự cóp nhặt danh ngôn của những vĩ nhân thế giới, rồi đề tên họ Hồ vào. Sở dĩ HCM và các thuộc hạ của ông mạnh dạn mượn tư tưởng của người khác làm của riêng ông ta, vì từ năm 1954 đến 1975, Bắc Việt sống hoàn toàn biệt lập, bưng bít. Không có bất cứ một sách vở xưa cũ hay một phương tiện truyền thông nào đến với dân chúng, ngoài sách đảng, báo đảng, và đài phát thanh đảng. Trong tình hình đó, HCM muốn cóp nhặt của ai thì tha hồ mà cóp nhặt, không ai biết gì để có thể so sánh. Nói cho cùng, người ta có biết, cũng không dám lên tiếng.
Ngay cái tên “Nguyễn Ái Quốc”, ông Hồ mượn của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền ; và cái tên “HCM”, ông Hồ mượn của Hồ Học Lãm. Chẳng những lấy tên “HCM” của Hồ Học Lãm, năm 1940, Nguyễn Ái Quốc còn chiếm dụng luôn danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh do Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần lập ra ở Nam Kinh (Trung Hoa) vào năm 1936, nhắm đánh lừa những người yêu Nước Việt Nam và cả chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng, để được giúp đỡ.

Theo tài liệu của ĐCSVN, Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản ở Pháp năm 1925 do chính Nguyễn Ái Quốc khởi viết từ 1921. Có tài liệu cho rằng Nguyễn Ái Quốc không viết được sách nầy, vì lúc đó ông ta không đủ trình độ Pháp văn để viết sách. Ông ta đã cóp nội dung bài “Đông Dương chính trị luận” của Phan Châu Trinh (đã được Jules Roux, bạn của Phan Châu Trinh, dịch ra tiếng Pháp để gởi cho chính phủ Pháp và Albert Sarraut sắp qua làm toàn quyền Đông Dương).

Chẳng những HCM “mượn” tư tưởng vĩ nhân thế giới làm tư tưởng của mình, cóp sách của người khác rồi sửa chửa làm sách của mình, ông ta còn mượn luôn thơ của người khác để làm thơ mình. Tác phẩm được coi là nổi tiếng của họ Hồ là Ngục trung nhật ký [Nhật ký trong tù], đa số là chép lại của một ông già họ Lý người Hoa.
Theo nhiều tài liệu, HCM không bao giờ là một nhà tư tưởng, cũng không phải là một lý thuyết gia chính trị. Trong sách Ho Chi Minh, Jean Lacouture, sử gia Pháp, đã ít nhất hai lần nói rằng HCM không phải là một lý thuyết gia, dù lúc viết sách nầy, Lacouture là một ký giả còn thiên tả. Mọi người đều đã từng nghe nói đến Marxism (Mác-xít), Leninism (Lênin-nít), Stalinism (Xìtalin-nít), Titoism (Titô-ít), Maoism (Mao-ít), nhưng không bao giờ nghe nói đến “Hoism” (Hồ-ít). HCM thật sự chỉ là một nhà chính trị giỏi thực hành, một chiến thuật gia (tactician), ứng biến mau lẹ, có tài đóng kịch, đặc biệt rất sắt máu và tàn ác dị thường.

Như thế, xét theo chiều rộng, HCM hoàn toàn không có một hệ thống tư duy đáng kể, và đúng như ông Dương Trung Quốc viết, ĐCSVN đã đưa ra khái niệm về “tư tưởng HCM” trước, rồi sau đó mới tập trung triển khai nghiên cứu xem “tư tưởng HCM là gì ?” Từ đó, ĐCSVN vẽ rồng vẽ rắn, nhào nặn ra tư tưởng HCM.

Tóm lại nếu nói rằng HCM là một đảng viên CS trung kiên, hết lòng hoạt động, bành trướng chủ nghĩa CS, hết lòng phục vụ ĐTQT, một cán bộ xuất sắc có ăn lương của Liên Xô, có tài tổ chức, khuynh đảo, đa sát, thì đúng. Tuy nhiên, nếu nói rằng HCM là người có đạo đức cách mạng với tâm hồn và tinh thần Việt Nam, có hệ thống “tư tưởng” riêng, thì cần phải xét lại.

Đảng CSVN muốn đảng viên học theo lãnh tụ họ Hồ thì tùy ý. Chỉ sợ càng học, ĐCSVN càng đưa Đất nước và dân chúng Việt thụt lùi thêm nữa. Nếu ĐCSVN bắt người Việt học tập đạo đức và tư tưởng HCM, thì người Việt có thêm cơ hội trở lại chuyện HCM, vạch trần thêm những sự thật bên trong huyền thoại HCM, và có thêm nhiều đề tài tiếu lâm lý thú. Ví dụ vừa qua, CSVN âm thầm đem tượng HCM vào trong chùa, tưởng rằng để cho dân chúng thờ lạy như cúng Phật. Dân chúng Việt Nam nghĩ khác. Đồng bào nói với nhau rằng HCM tội lỗi nhiều quá, cần phải sám hối, để cho ông ta vào chùa tu trì, nghe kinh kệ, hóa giải nghiệp chướng, mới hy vọng có cơ hội siêu thoát, chứ để ông chết phơi thây mãi thì biết khi nào được hóa kiếp ? Tuy nhiên, nếu những nhà lãnh đạo hiện thời của CSVN đang cầm quyền, vào chùa nghe kinh kệ thì tốt hơn rất nhiều, thay vì gởi đại biểu là ông HCM !

Để thay thế kết luận, bài nầy xin giới thiệu chương trình lịch sử trung học của CHNDTH mới được áp dụng ở Thượng Hải (Shanghai), mà theo tác giả Joseph Kahn trong bài “Mao ở đâu ? Hay Trung Quốc đang viết lại lịch sử” (Phạm Minh Ngọc dịch, Talawas, 27-9-2006), phần mở, có đoạn viết: “Chủ nghĩa xã hội được thu vào trong một chương ngắn trong cuốn sách lịch sử dành cho học sinh lớp trên. Lịch sử đảng CS Trung Quốc trước cuộc cải cách kinh tế năm 1979 được rút lại còn có một câu. Mao Trạch Đông chỉ được nhắc tới một lần – trong chương nói về đức dục.” Cần lưu ý, CHNDTH gia nhập WTO ngày 11-12-2001. Từ tháng 12-2001 đến đầu 2006 là hơn bốn năm. Và đó cũng là thời hạn “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM” của chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ chính trị ĐCSVN (3-2-2007 đến 3-2-2011). Có lẽ rồi đây, trường hợp HCM cũng sẽ không khác Mao Trạch Đông. @

Trần Gia Phụng - Toronto - 25.01.2007

(1) Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam [HCM, từ Đông Dương đến Việt Nam], Paris : Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tr. 134.
(2) Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng Trung Ương, Chủ tịch HCM, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, có xem lại và bổ sung, Hà Nội : Nxb. Sự Thật, 1975, tr. 171. (Phía cuối phóng ảnh)
(3) Hoàng Tranh [Huang Zheng], “HCM và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung Hoành, Nam Ninh (CHNDTH), tháng 11-2001. Báo Diễn Đàn, Paris, số 121, tháng 9-2002, dịch đăng lại, tt. 17-22.
(4) Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, California : Nxb. Văn Nghệ, 1997, tt. 605-609 (4a), tr. 422 phần chú thích (4b).
(***) Trong khi Stalin & Mao Trạch Đông là 2 bạo chúa cực kỳ tàn ác, đến nỗi con gái Stalin phải trốn qua tị nạn tại Hoa Kỳ, còn Mao Trạch Đông chủ trương : “Để giúp hơn 1 tỉ người Trung Quốc sung sướng, làm Cách mạng Văn hóa mà giết 30 triệu người (cách rất dã man) thì đó là hành vi đạo đức”.

http://s152542055.onlinehome.us/xoops4/modules/newbb/viewtopic.php?topic_id=457&forum=9&post_id=1072#forumpost1072

Aucun commentaire: